Nepal: Lumbini và Câu Chuyện Dòng Sông – Tống Mai

Mar 23, 2019 (TM)

Silent please.
Tôi đến Lumbini không một mong đợi. Tôi đến vì biết đây là mục đích của chuyến Nepal của mình.  Không cần tấm bảng nhắc nhở khách viếng phải giữ im lặng, tôi đã cảm thấy cái vô thanh chung quanh không ai muốn phá vỡ.  Không một chút mong mỏi mình sẽ thấy được cảnh tiên, rằng Lâm Tỳ Ni phải đẹp như thế nào nên tôi không hề thất vọng khi bước vào một khuôn viên thật khiêm nhường, và đó là chính xác những gì tôi muốn thấy, một nơi rất khiêm nhường không tô điểm.

Điều đầu tiên tôi tìm là cây Bồ Đề, hay còn gọi là cây Vô Ưu của thời Hoàng Hậu Maya, khi bà vịn vào nhánh cây để cho ra đời Siddhartha. Chung quanh cây cổ thụ khổng lồ tàng lá rợp cả một khoảng không gian treo dầy đặc những lá cờ cầu nguyện. Tôi tìm cách chụp hình nhưng không tài nào tìm được một góc cạnh  vừa ý, nên chỉ nán lại quan sát những sinh hoạt chung quanh. Có một người đàn bà quét lá bụi tung mờ, một người áo vàng ngồi thiền định trên chiếu, và một vài người đàn bà đến rải gạo muối vào một cái am nhỏ thờ thần thánh dưới gốc cây.  Bên cạnh cây là hồ Puskarini hay Holy Pond, nơi Hoàng Hậu Maya tắm gội lần đầu tiên cho con trai Siddhartha của mình,  bóng đền Mayadevi lung linh trong nước.

Bên phải của cây là những dãi cờ phủ rợp như một bức tường muôn màu bay trong gió. Đây là những lá phướn ta thấy khắp nơi ở Nepal có mục đích cầu bình yên cho thế gian và cho chính mình. Có 5 màu cờ, mỗi màu tượng trưng cho mỗi ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ – màu xanh cho trời, trắng cho nước, đỏ cho lửa, xanh lục cho khí, và màu vàng cho đất. Y học cổ truyền Đông Phương cho rằng sức khỏe và sự hài hòa sẽ đạt được khi có sự cân bằng của 5 yếu tố này. Trên những tấm cờ là hình ảnh những linh thú và những câu thần chú – chim Garuda, rồng, cọp,  ngựa gió, và sư tử tuyết, và những câu kinh cầu sẽ được gió mang đến cho tất cả nhân loại.

Tôi nấn ná rất lâu quanh cây Bồ Đề. Nếu Thịnh không gọi tôi vào xem dấu tích của Phật nơi ngài được sinh ra thì tôi không hề biết rằng bên trong đền Mayadevi phía góc trái là một Marker Stone đánh dấu nơi Đức Phật ra đời. Người đi xem dừng lại để cầu nguyện. Đến phiên tôi thì không hiểu sao trong đầu hiện ra hình ảnh của người chị vừa mới qua đời của tôi, ứa nước mắt, tôi nói lời cầu xin cho chị được sớm vào cửa Phật, trong lòng không mảy may một nguyện ước nào khác.

Rồi tôi lại nghĩ đến người lái đò Vasudeva trong cuốn Siddhartha (Câu Chuyện Dòng Sông) của Hermann Hesse.

OM

Tống Mai
Lumbini – March 18, 2019

 

 

 

 

Reflection of Mayadevi Temple on the Holy Pond,
where Queen Maya gave her son his first purification bath

 

 

Mayadevi Temple

Bodhi Tree – Bồ Đề

 

Central Canal connecting the village to the Sacred Garden

Prayer Flags

 

Bhikkhus on almsround – Khất thực

OM

 

 

SIDDHARTHA – CÂU CHUYỆN DÒNG SÔNG
Hermann Hesse
Người dịch: Phùng Thăng và Phùng Khánh

Chương 9: Người Lái Đò

Ta sẽ ở lại bên con sông này, Tất Đạt nghĩ. Cũng cùng con sông này ta đã đi qua trên con đường về kinh thành. Một người lái đò thân thiện đã đưa ta sang sông. Ta sẽ đến ông ấy. Con đường ta đi đã một lần đưa ta từ mái chòi của người đến một đời sống mới mà bây giờ đã cũ và chết. Con đường hiện tại của ta, cuộc đời mới của ta sẽ bắt đầu từ đây!

Chàng thương mến nhìn dòng nước chảy, nhìn màu xanh trong suốt, những đường pha lê vẽ nên bức tranh thần tình trong lòng nước. Chàng trông thấy những viên ngọc ngời sáng nổi lên từ đáy sâu, những bọt nước bơi lội trên tấm gương, bầu trời trong xanh phản chiếu trong bọt nước. Con sông nhìn chàng bằng trăm ngàn đôi mắt – màu xanh lục, trắng, màu pha lê, màu xanh da trời. Chàng yêu dòng sông này biết bao, nó thật quyến rũ và chàng đầy cảm ơn đối với nó. Chàng nghe trong tim tiếng nói của thức tỉnh nói với chàng: “Hãy yêu dòng sông này, ở bên nó và học với nó”. Phải, chàng muốn học nơi nó, chàng muốn lắng nghe nó. Chàng thấy dường như ai bất cứ ai hiểu được dòng sông và những huyền bí của nó sẽ hiểu được nhiều điều hơn nữa, nhiều điều huyền bí, tất cả mọi huyền bí.

Nhưng hôm nay chàng chỉ mới thấy một điều bí mật của con sông, điều bí mật đã đập mạnh vào tâm trí chàng. Chàng thấy con sông vẫn tiếp tục chảy như nó vẫn luôn luôn ở đấy, luôn luôn là dòng sông ấy trước mắt chàng, tuy nhiên mỗi lúc nó mỗi mới. Ai có thể hiểu được, quan niệm được điều này… Chàng không hiểu được, chàng chỉ trực nhận một mối hoài nghi, một ký ức lờ mờ, và những tiếng nói thiêng liêng.

Tất Đạt đứng dậy, cơn đói cồn cào đang trở thành không thể chịu được. Chàng khó nhọc đi lang thang dọc theo bờ sông lắng nghe tiếng nước vỗ, lắng nghe cái đói đang vò xé thân thể chàng.

Khi chàng đến bến, chiếc đò đã đợi sẵn và người lái đò đã một lần đưa chàng Tất Đạt trai trẻ qua sông, đang đứng trên đò. Tất Đạt nhận ra ông ta ngay. Ông ta cũng già đi rất nhiều.

– Nhờ ông đưa tôi sang sông. Chàng nói. Người lái đò ngạc nhiên thấy người đàn ông sang trọng như thế đi bộ một mình, mời chàng lên thuyền và rời bến, Tất Đạt bảo:

– Ông đã chọn một cuộc sống thần tiên. Sống bên dòng sông này và chèo thuyền trên sông hằng ngày hẳn là thích thú lắm.

Người lái đò đẩy nhẹ mái chèo mỉm cười:

– Rất thú vị, đúng như ngài nói, nhưng không phải cuộc sống nào, công việc nào cũng thú vị cả hay sao…

– Có lẽ, nhưng tôi thèm khát công việc của ông.

– Ồ, ông sẽ mất hứng thú vì nó. Nó không phải là công việc của những người ăn mặc đẹp.

Tất Đạt cười:

– Hôm nay tôi đã bị phê bình qua phục sức và nhìn nó với sự nghi ngờ. Ông có thể nhận những quần áo mà tôi thấy rất phiền phức này không… Vì tôi phải nói với ông rằng tôi không có tiền để trả công ông đã đưa tôi sang sông.

Người lái đò cười lớn:

– Ông nói đùa chứ.

– Tôi không đùa, ông bạn ạ. Trước kia đã có lần ông đưa tôi sang sông này không lấy tiền, vì thế hôm nay tôi cũng xin ông làm như thế và lấy quần áo của tôi vậy.

– Và rồi ông tiếp tục đi trần truồng sao…

– Tôi không muốn đi thêm nữa. Tôi muốn xin ông cho tôi một ít đồ cũ và để tôi ở đây như người phụ tá của ông, hay hơn nữa người học nghề của ông, vì tôi phải học cách lái đò.

Người lái đò đăm đăm nhìn người khách lạ rất lâu:

– Tôi nhận ra ngài rồi. Có lần ngài đã ngủ trong chòi của tôi. Lâu lắm rồi, dường như hơn hai mươi năm về trước. Tôi đưa ngài sang sông và khi chia tay, chúng ta trở thành đôi bạn tốt. Tôi không thể nhớ tên ngài, có phải ngài đã là Sa Môn không…

– Phải, lúc ấy tôi là một Sa Môn và tên là Tất Đạt.

– Hân hạnh chào ngài Tất Đạt. Tên tôi là Vệ Sử. Tôi mong ngài sẽ là người khách của tôi hôm nay và ngủ trong lều tôi, và kể tôi nghe ngài từ đâu đến và tại sao ngài chán y phục sang trọng của ngài.

Họ đã ra đến giữa sông và Vệ Sử chèo mạnh hơn vì ngược nước. Ông chèo một cách bình thản, với hai cánh tay mạnh, vừa nhìn về phía mũi thuyền. Tất Đạt ngồi nhìn ông và nhớ ra một lần vào thuở còn là Sa Môn, chàng đã rất có thiện cảm với người này. Khi họ đến bến, Tất Đạt giúp ông cột thuyền. Vệ Sử dẫn chàng vào lều, cho chàng bánh, nước và một quả xoài. Tất Đạt ăn tất cả một cách hoan hỉ.

Một lát sau, khi mặt trời bắt đầu lặn, họ ngồi trên một thân cây cạnh dòng sông và Tất Đạt kể cho ông ta nghe về lai lịch của chàng và cuộc sống của chàng cho đến khi chàng gặp ông ta hôm nay, sau giờ phút tuyệt vọng. Câu chuyện kéo dài cho đến khuya.

Vệ Sử lắng nghe một cách chăm chú; ông nghe tất cả những gì về lai lịch và tuổi thơ của chàng, về sự học của chàng, về sự tìm kiếm của chàng về khoái lạc và những nhu cầu của chàng. Một trong những đức tính của người lái đò, mà rất ít người có, là ông biết lắng nghe. Không nói với chàng một lời. Người kể chuyện có cảm giác Vệ Sử nghe kỹ từng tiếng, một cách im lặng, đợi chờ, không bỏ sót lời nào. Ông không thúc giục, không khen, không chê – ông chỉ lắng nghe. Tất Đạt cảm thấy thật là tuyệt diệu khi có một người nghe như thể bị thu hút vào cuộc sống của riêng chàng, những cố gắng, những nỗi buồn riêng tư của chàng.

Tuy nhiên, khoảng cuối câu chuyện, khi Tất Đạt kể về cây cổ thụ bên sông và sự tuyệt vọng của chàng, về tiếng “Om” linh diệu, và sau giấc ngủ, chàng yêu mến dòng sông ra sao, người lái đò nghe chăm chú gấp đôi và hoàn toàn bị thu hút, đôi mắt nhắm nghiền lại.

Khi Tất Đạt kể hết và sau một lúc lâu im lặng, Vệ Sử nói:

– Theo tôi nghĩ, chính dòng sông đã nói với Ngài. Nó cũng thân thiện với ngài nữa, nó đang nói với Ngài. Lành thay điều đó. Ở lại đây cùng tôi, hỡi ông bạn. Ngày xưa tôi có vợ, giường nàng sát kề giường tôi, nhưng giờ nàng đã chết. Tôi sống một mình từ lâu rồi. Hãy đến ở với tôi, có chỗ ở và thức ăn cho cả hai chúng ta.

– Tôi cảm ơn anh, Tất Đạt nói. Tôi cảm ơn và nhận lời anh. Tôi cũng cám ơn anh, Vệ Sử vì anh đã lắng nghe chuyện tôi như thế. Rất ít người biết lắng nghe và tôi chưa gặp ai có thể nghe như anh đã nghe. Tôi cũng sẽ học nơi anh về điều này.

– Anh sẽ học, nhưng không phải nơi tôi. Chính dòng sông đã dạy tôi cách nghe, anh cũng sẽ học nơi nó. Dòng sông biết mọi chuyện, người ta có thể học chuyện từ nơi dòng sông. Anh đã học với con sông rằng nên cố gắng lặn xuống tìm kiếm những chiều sâu thăm thẳm nhất. Ông Tất Đạt sang trọng giàu có, ông Tất Đạt người Bà La Môn trí thức sẽ trở thành ông lái đò. Anh đã học điều này từ dòng sông. Anh cũng sẽ học nhiều điều khác nữa …

Sau một hồi lâu im lặng, Tất Đạt bảo:

– Điều nào khác nữa đâu, ông bạn…

Vệ Sử đứng lên và nói:

– Khuya rồi, ta đi nghỉ thôi. Tôi không thể nói cho anh nghe điều khác ấy như thế nào, bạn ạ. Anh sẽ tìm ra, và cũng có thể anh đã biết rồi. Tôi không phải là người có học; tôi không biết nói chuyện và suy tư. Tôi chỉ biết nghe và trung thành, ngoài ra tôi không biết gì cả. Nếu tôi có thể nói chuyện và dạy dỗ, có lẽ tôi đã trở thành một thầy giáo; nhưng tôi chỉ là một người lái đò và việc của tôi là đưa người sang sông. Tôi đã đưa hàng ngàn người sang và với mọi người, con sông của tôi không là gì cả, nó chỉ là một chướng ngại trên đường đi của họ. Họ đã đi cuộc hành trình vì tiền, và vì công việc kinh doanh, đám cưới hay đi hành hương; dòng sông đã cản đường họ và người lái đò chỉ ở đó đưa họ vượt nhanh qua trở ngại. Tuy nhiên, giữa hàng ngàn người có một số rất ít, bốn hay năm người không cho con sông là chướng ngại vật. Họ đã nghe tiếng nói của dòng sông và chú ý, và dòng sông trở nên linh thiêng đối với họ cũng như đối với tôi. Bây giờ ta hãy đi nghỉ, Tất Đạt ạ.

Tất Đạt ở lại với người lái đò và học cách trông coi chiếc thuyền, và khi không có việc dưới thuyền, chàng giúp Vệ Sử trong đồng lúa, nhặt củi, và hái chuối. Chàng học cách chế những chiếc chèo, sửa thuyền và đan giỏ. Chàng vui thích với mọi công việc và học hỏi. Ngày tháng qua nhanh. Chàng học ở con sông nhiều hơn những gì Vệ Sử có thể dạy chàng. Chàng không ngừng học hỏi ở nó. Trước hết chàng học cách lắng nghe, nghe với một tâm hồn vắng lặng, với một sự đợi chờ, mở hồn ra, không dục vọng, không say mê, không phê phán, không quan niệm.

Chàng sống hạnh phúc với Vệ Sử và thỉnh thoảng họ trao đổi những lời đầy suy tư. Vệ Sử không thích nhiều lời. Tất Đạt ít khi có thể làm cho ông ta nói chuyện.

Một hôm, Tất Đạt hỏi ông:

– Có phải ông cũng học điều nhiệm màu này từ dòng sông không, rằng không có cái gì gọi là thời gian…

Một nụ cười sáng lên trên khuôn mặt Vệ Sử:

– Phải đấy, Tất Đạt! Có phải là bạn muốn nói điều này không: con sông nó ở khắp nơi cùng một lúc, ở đại dương và ở núi, khắp nơi, và với nó chỉ có hiện tại, không có bóng dáng quá khứ cũng như vị lai.

– Chính thế, Tất Đạt nói, và khi tôi học được điều đó, tôi ôn lại cuộc đời mình và thấy nó cũng là một dòng sông. Tất Đạt người con trai, Tất Đạt người trưởng thành và Tất Đạt ông già, chỉ tách rời nhau bằng những cái bóng, không phải thực tại. Những tiền kiếp của Tất Đạt không ở trong quá khứ, cái chết và sự trở về Đại ngã của Tất Đạt cũng không phải ở trong vị lai. Không có cái gì đã là, không có cái gì sẽ là, mọi sự đều là thực tại và hiện tiền.

Tất Đạt nói đầy vẻ thích thú. Sự khám phá này làm chàng hân hoan. Không phải mọi buồn rầu đều ở trong thời gian đó sao… Và mọi nỗi dày vò sợ hãi… Và thế thì phải chăng mọi khó khăn, mọi điều xấu của thế gian sẽ được khắc phục ngay khi ta khắc phục được thời gian, khi ta bất chấp nó… Chàng thích thú nói; nhưng Vệ Sử chỉ cười tươi tắn và gật đầu đồng ý. Ông vỗ vai chàng và trở lại công việc.

Một bận khác khi con sông dâng lên mùa mưa, và gầm lên ầm ĩ, Tất Đạt nói:

– Ông bạn ơi, có phải con sông có rất nhiều tiếng nói ấy không… Có giọng của một vì vua, một ông tướng, một bọt nước, một cánh chim đêm, một người đàn bà đau đớn và một người đàn ông thở dài, và muôn ngàn giọng khác…

– Thật thế, Vệ Sử gật, trong tiếng dòng sông, có tiếng của mọi loài đang sống.

– Và ông bạn có biết, Tất Đạt nói tiếp, con sông nói lên tiếng gì khi người ta có thể nghe được cả muôn ngàn tiếng nói của nó cùng một lúc…

Vệ Sử cười lớn vui vẻ; ông cúi mình về phía Tất Đạt và thì thầm vào tai chàng tiếng “Om” thiêng liêng. Và chính đấy là tiếng mà Tất Đạt đã nghe.

Dần dà, nụ cười chàng bắt đầu giống nụ cười ông lái đò, cũng trong sáng, đầy hạnh phúc, cũng ngời lên qua nhiều nếp nhăn, cũng hồn nhiên và bình thản. Nhiều lữ khách thấy họ tưởng là hai anh em. Họ thường ngồi với nhau trên thân cây bên bờ sông. Họ cùng lắng nghe tiếng nước, mà đối với họ là tiếng của cuộc đời, tiếng của thực tại, của sự sinh thành vĩnh viễn. Và đôi khi, lúc lắng nghe dòng sông, họ cùng có những tư tưởng giống nhau về một cuộc đối thoại hôm trước, hay về một trong những lữ khách mà số phận và hoàn cảnh đã làm họ suy nghĩ, hay về sự chết hay về thời trẻ thơ. Khi dòng sông cùng lúc nói với họ một điều hay, họ nhìn nhau, cùng chung một ý tưởng, cùng sung sướng vì cùng có giải đáp giống nhau về một vấn đề.

Nhiều người qua sông cảm thấy có cái gì toả ra từ dòng sông và từ hai người lái đò ấy. Một đôi khi một hành khách nhìn một trong hai người và bắt đầu kể về cuộc đời mình những âu lo, tội lỗi và hỏi ý kiến hoặc tìm lời an ủi. Có người xin phép ở lại một buổi chiều với họ, để lắng nghe dòng sông. Cũng có người tò mò tìm đến, vì nghe đồn có hai triết nhân, phù thuỷ hay người thánh thiện sống ở bến đò ngang. Họ hỏi hai người nhiều câu nhưng không được trả lời, và họ không tìm thấy phù thuỷ hay thánh hiền nào cả. Họ chỉ thấy hai ông già thân thiện, có vẻ câm, hay đúng hơn kỳ dị và ngớ ngẩn. Rồi họ cười lớn, bảo rằng người ta thật là nhẹ dạ, và điên rồ làm sao khi đồn đại những tin huyễn hoặc như kia.

Năm tháng trôi qua và không ai đếm xỉa đến đôi bạn. Nhưng bỗng một ngày, vài vị tu sĩ, những đồ đệ của đức Cồ Đàm, đến nhờ họ chèo qua sông. Hai người lái đò được biết những vị sư muốn về gặp sư phụ của họ gấp, vì có tin đấng Giác Ngộ ốm nặng và sắp nhập Niết Bàn. Chẳng bao lâu một toán tu sĩ khác đến, rồi một toán khác, và những tu sĩ cũng như phần đông hành khách, đều chỉ nói đến đức Phật và sự Ngài sắp mất. Và cũng như khi đi xem một cuộc viễn chinh hay một cuộc tấn phong hoàng đế, người ta từ tứ phía tụ lại như những đàn ong, như bị thu hút bởi nam châm, kéo đến chỗ đức Phật đang nằm trên tử sàng, nơi mà biến cố lớn đang tiếp diễn và vị cứu tinh của một thời đang đi vào cõi Vô cùng.

Tất Đạt nghĩ rất nhiều về thánh sắp chết, người mà tiếng nói đã kích động hàng nghìn người, tiếng nói mà chàng cũng đã một lần nghe, người mà gương mặt thánh thiện chàng đã một lần chiêm ngưỡng với đầy uy phục. Chàng yêu mến nghĩ về Ngài, nhớ đến con đường giải thoát của Ngài, và mỉm cười nhớ lại những lời chàng đã có lần thốt ra với đấng Giác Ngộ khi chàng còn là một thanh niên. Hình như những lời nói ấy rất ngạo mạn và hơi sờm sủa với Ngài lúc ấy. Trong một thời gian khá lâu, chàng biết rằng chàng không xa đức Cồ Đàm, mặc dù chàng không thể chấp nhận giáo lý của Ngài. Không, một kẻ thực sự đi tìm kiếm, không thể chấp nhận bất cứ lý thuyết nào, nếu kẻ ấy thành tâm muốn tìm ra một cái gì. Nhưng người tìm ra có thể đồng ý với mọi con đường mọi mục đích, không gì phân rẽ người ấy với hàng nghìn người khác sống trong vô tận thời gian cùng thở luồng Thần khí.

 

THE FERRYMAN

By this river I want to stay, thought Siddhartha, it is the same which I have crossed a long time ago on my way to the childlike people, a friendly ferryman had guided me then, he is the one I want to go to, starting out from his hut, my path had led me at that time into a new life, which had now grown old and is dead—my present path, my present new life, shall also take its start there!

Tenderly, he looked into the rushing water, into the transparent green, into the crystal lines of its drawing, so rich in secrets. Bright pearls he saw rising from the deep, quiet bubbles of air floating on the reflecting surface, the blue of the sky being depicted in it. With a thousand eyes, the river looked at him, with green ones, with white ones, with crystal ones, with sky-blue ones. How did he love this water, how did it delight him, how grateful was he to it! In his heart he heard the voice talking, which was newly awaking, and it told him: Love this water! Stay near it! Learn from it! Oh yes, he wanted to learn from it, he wanted to listen to it. He who would understand this water and its secrets, so it seemed to him, would also understand many other things, many secrets, all secrets.

But out of all secrets of the river, he today only saw one, this one touched his soul. He saw: this water ran and ran, incessantly it ran, and was nevertheless always there, was always at all times the same and yet new in every moment! Great be he who would grasp this, understand this! He understood and grasped it not, only felt some idea of it stirring, a distant memory, divine voices.

Siddhartha rose, the workings of hunger in his body became unbearable. In a daze he walked on, up the path by the bank, upriver, listened to the current, listened to the rumbling hunger in his body.

When he reached the ferry, the boat was just ready, and the same ferryman who had once transported the young Samana across the river, stood in the boat, Siddhartha recognised him, he had also aged very much.

“Would you like to ferry me over?” he asked.

The ferryman, being astonished to see such an elegant man walking along and on foot, took him into his boat and pushed it off the bank.

“It’s a beautiful life you have chosen for yourself,” the passenger spoke. “It must be beautiful to live by this water every day and to cruise on it.”

With a smile, the man at the oar moved from side to side: “It is beautiful, sir, it is as you say. But isn’t every life, isn’t every work beautiful?”

“This may be true. But I envy you for yours.”

“Ah, you would soon stop enjoying it. This is nothing for people wearing fine clothes.”

Siddhartha laughed. “Once before, I have been looked upon today because of my clothes, I have been looked upon with distrust. Wouldn’t you, ferryman, like to accept these clothes, which are a nuisance to me, from me? For you must know, I have no money to pay your fare.”

“You’re joking, sir,” the ferryman laughed.

“I’m not joking, friend. Behold, once before you have ferried me across this water in your boat for the immaterial reward of a good deed. Thus, do it today as well, and accept my clothes for it.”

“And do you, sir, intent to continue travelling without clothes?”

“Ah, most of all I wouldn’t want to continue travelling at all. Most of all I would like you, ferryman, to give me an old loincloth and kept me with you as your assistant, or rather as your trainee, for I’ll have to learn first how to handle the boat.” assistant, or rather as your trainee, for I’ll have to learn first how to handle the boat.”

For a long time, the ferryman looked at the stranger, searching.

“Now I recognise you,” he finally said. “At one time, you’ve slept in my hut, this was a long time ago, possibly more than twenty years ago, and you’ve been ferried across the river by me, and we parted like good friends. Haven’t you’ve been a Samana? I can’t think of your name any more.”

“My name is Siddhartha, and I was a Samana, when you’ve last seen me.”

“So be welcome, Siddhartha. My name is Vasudeva. You will, so I hope, be my guest today as well and sleep in my hut, and tell me, where you’re coming from and why these beautiful clothes are such a nuisance to you.”

They had reached the middle of the river, and Vasudeva pushed the oar with more strength, in order to overcome the current. He worked calmly, his eyes fixed in on the front of the boat, with brawny arms. Siddhartha sat and watched him, and remembered, how once before, on that last day of his time as a Samana, love for this man had stirred in his heart. Gratefully, he accepted Vasudeva’s invitation. When they had reached the bank, he helped him to tie the boat to the stakes; after this, the ferryman asked him to enter the hut, offered him bread and water, and Siddhartha ate with eager pleasure, and also ate with eager pleasure of the mango fruits, Vasudeva offered him.

Afterwards, it was almost the time of the sunset, they sat on a log by the bank, and Siddhartha told the ferryman about where he originally came from and about his life, as he had seen it before his eyes today, in that hour of despair. Until late at night, lasted his tale.

Vasudeva listened with great attention. Listening carefully, he let everything enter his mind, birthplace and childhood, all that learning, all that searching, all joy, all distress. This was among the ferryman’s virtues one of the greatest: like only a few, he knew how to listen. Without him having spoken a word, the speaker sensed how Vasudeva let his words enter his mind, quiet, open, waiting, how he did not lose a single one, awaited not a single one with impatience, did not add his praise or rebuke, was just listening.ong the ferryman’s virtues one of the greatest: like only a few, he knew how to listen. Without him having spoken a word, the speaker sensed how Vasudeva let his words enter his mind, quiet, open, waiting, how he did not lose a single one, awaited not a single one with impatience, did not add his praise or rebuke, was just listening. Siddhartha felt, what a happy fortune it is, to confess to such a listener, to bury in his heart his own life, his own search, his own suffering.

But in the end of Siddhartha’s tale, when he spoke of the tree by the river, and of his deep fall, of the holy Om, and how he had felt such a love for the river after his slumber, the ferryman listened with twice the attention, entirely and completely absorbed by it, with his eyes closed.

But when Siddhartha fell silent, and a long silence had occurred, then Vasudeva said: “It is as I thought. The river has spoken to you. It is your friend as well, it speaks to you as well. That is good, that is very good. Stay with me, Siddhartha, my friend. I used to have a wife, her bed was next to mine, but she has died a long time ago, for a long time, I have lived alone. Now, you shall live with me, there is space and food for both.”

“I thank you,” said Siddhartha, “I thank you and accept. And I also thank you for this, Vasudeva, for listening to me so well! These people are rare who know how to listen. And I did not meet a single one who knew it as well as you did. I will also learn in this respect from you.”

“You will learn it,” spoke Vasudeva, “but not from me. The river has taught me to listen, from it you will learn it as well. It knows everything, the river, everything can be learned from it. See, you’ve already learned this from the water too, that it is good to strive downwards, to sink, to seek depth. The rich and elegant Siddhartha is becoming an oarsman’s servant, the learned Brahman Siddhartha becomes a ferryman: this has also been told to you by the river. You’ll learn that other thing from it as well.”

Quoth Siddhartha after a long pause: “What other thing, Vasudeva?”

Vasudeva rose. “It is late,” he said, “let’s go to sleep. I can’t tell you that other thing, oh friend. You’ll learn it, or perhaps you know it already. See, I’m no learned man, I have no special skill in speaking, I also have no special skill in thinking. All I’m able to do is to listen and to be godly, I have learned nothing else. If I was able to say and teach it, I might be a wise man, but like this I am only a ferryman, and it is my task to ferry people across the river. I have transported many, thousands; and to all of them, my river has been nothing but an obstacle on their travels. They travelled to seek money and business, and for weddings, and on pilgrimages, and the river was obstructing their path, and the ferryman’s job was to get them quickly across that obstacle. But for some among thousands, a few, four or five, the river has stopped being an obstacle, they have heard its voice, they have listened to it, and the river has become sacred to them, as it has become sacred to me. Let’s rest now, Siddhartha.”

Siddhartha stayed with the ferryman and learned to operate the boat, and when there was nothing to do at the ferry, he worked with Vasudeva in the rice-field, gathered wood, plucked the fruit off the banana-trees. He learned to build an oar, and learned to mend the boat, and to weave baskets, and was joyful because of everything he learned, and the days and months passed quickly. But more than Vasudeva could teach him, he was taught by the river. Incessantly, he learned from it. Most of all, he learned from it to listen, to pay close attention with a quiet heart, with a waiting, opened soul, without passion, without a wish, without judgement, without an opinion.

In a friendly manner, he lived side by side with Vasudeva, and occasionally they exchanged some words, few and at length thought about words. Vasudeva was no friend of words; rarely, Siddhartha succeeded in persuading him to speak.

“Did you,” so he asked him at one time, “did you too learn that secret from the river: that there is no time?”

Vasudeva’s face was filled with a bright smile.

“Yes, Siddhartha,” he spoke. “It is this what you mean, isn’t it: that the river is everywhere at once, at the source and at the mouth, at the waterfall, at the ferry, at the rapids, in the sea, in the mountains, everywhere at once, and that there is only the present time for it, not the shadow of the past, not the shadow of the future?”

“This it is,” said Siddhartha. “And when I had learned it, I looked at my life, and it was also a river, and the boy Siddhartha was only separated from the man Siddhartha and from the old man Siddhartha by a shadow, not by something real. Also, Siddhartha’s previous births were no past, and his death and his return to Brahma was no future. Nothing was, nothing will be; everything is, everything has existence and is present.”

Siddhartha spoke with ecstasy; deeply, this enlightenment had delighted him. Oh, was not all suffering time, were not all forms of tormenting oneself and being afraid time, was not everything hard, everything hostile in the world gone and overcome as soon as one had overcome time, as soon as time would have been put out of existence by one’s thoughts? In ecstatic delight, he had spoken, but Vasudeva smiled at him brightly and nodded in confirmation; silently he nodded, brushed his hand over Siddhartha’s shoulder, turned back to his work.

And once again, when the river had just increased its flow in the rainy season and made a powerful noise, then said Siddhartha: “Isn’t it so, oh friend, the river has many voices, very many voices? Hasn’t it the voice of a king, and of a warrior, and of a bull, and of a bird of the night, and of a woman giving birth, and of a sighing man, and a thousand other voices more?”

“So it is,” Vasudeva nodded, “all voices of the creatures are in its voice.”

“And do you know,” Siddhartha continued, “what word it speaks, when you succeed in hearing all of its ten thousand voices at once?”

Happily, Vasudeva’s face was smiling, he bent over to Siddhartha and spoke the holy Om into his ear. And this had been the very thing which Siddhartha had also been hearing.

And time after time, his smile became more similar to the ferryman’s, became almost just as bright, almost just as throughly glowing with bliss, just as shining out of thousand small wrinkles, just as alike to a child’s, just as alike to an old man’s. Many travellers, seeing the two ferrymen, thought they were brothers. Often, they sat in the evening together by the bank on the log, said nothing and both listened to the water, which was no water to them, but the voice of life, the voice of what exists, of what is eternally taking shape. And it happened from time to time that both, when listening to the river, thought of the same things, … and … they both in the same moment, when the river had been saying something good to them, looked at each other., both thinking precisely the same thing, both delighted about the same answer to the same question.

There was something about this ferry and the two ferrymen which was transmitted to others, which many of the travellers felt. It happened occasionally that a traveller, after having looked at the face of one of the ferrymen, started to tell the story of his life, told about pains, confessed evil things, asked for comfort and advice. It happened occasionally that someone asked for permission to stay for a night with them to listen to the river. It also happened that curious people came, who had been told that there were two wise men, or sorcerers, or holy men living by that ferry. The curious people asked many questions, but they got no answers, and they found neither sorcerers nor wise men, they only found two friendly little old men, who seemed to be mute and to have become a bit strange and gaga. And the curious people laughed and were discussing how foolishly and gullibly the common people were spreading such empty rumours.

The years passed by, and nobody counted them. Then, at one time, …monks came by on a pilgrimage, followers of Gotama, the Buddha, who were asking to be ferried across the river, … they were most hurriedly walking back to their great teacher, for the news had spread the exalted one was deadly sick and would soon die his last human death,in order to become one with the salvation. It was not long, until a new flock of monks came along on their pilgrimage, and another one, and the monks as well as most of the other travellers and people walking through the land spoke of nothing else than of Gotama and his impending death. .. they flocked, like being drawn on by a magic spell, to where the great Buddha was awaiting his death, where the huge event was to take place and the great perfected one of an era was to become one with the glory.

Often, Siddhartha thought in those days of the dying wise man, the great teacher, whose voice had admonished nations and had awoken hundreds of thousands, whose voice he had also once heard, whose holy face he had also once seen with respect. Kindly, he thought of him … and remembered with a smile those words which he had once, as a young man, said to him, the exalted one. They had been, so it seemed to him, proud and precocious words; with a smile, he remembered them. For a long time he knew that there was nothing standing between Gotama and him any more, though he was still unable to accept his teachings. No, there was no teaching a truly searching person, someone who truly wanted to find, could accept. But he who had found, he could approve of any teachings, every path, every goal, there was nothing standing between him and all the other thousand any more who lived in that what is eternal, who breathed what is divine.

 

 

22 thoughts on “Nepal: Lumbini và Câu Chuyện Dòng Sông – Tống Mai

  1. Tuy đã biết về vườn Lumbini nhưng nay mới thấy toàn cảnh cùng cây Bồ Đề lịch sử, những cận ảnh của bàn tay cầu nguyện hay “OM” đều mang tính nghệ thuật, những đền đài, “Silent Please” mang dấu tích ngàn năm hiếm gặp, nhưng thương quý nhất là nơi mỗi tấm ảnh đều mang dấu ấn của bàn chân nhỏ bé vượt ngàn dặm đường đầy khổ cực cùng gió bụi và sương lạnh của Nepal.
    Khen người con gái đã can đảm vươt qua được một hành trình đầy thử thách.
    Đây chính là ” Hành trình về Phương Đông” của Mai đó.
    Cám ơn Mai

    1. Mai chỉ ghi lại một góc bé tí của Lumpini nơi Đức Phật sinh ra.
      Cả một khuôn viên bề dài 5 km và rộng 1.6 km mênh mông trong đó có nhiều tu viện của các nước khác kể cả của Vietnam. Phía Đông thuộc về tu viện của phái Theravada và phía Tây thuộc về tu viện của phái Mahayana và Vajrayana. Giữa 2 vùng Đông Tây đó là con kênh chia hai. Khách hành hương nhiều nhất là từ Tibet và India. Người Tibet mang vàng lá đến đền Mayadevi để dán vào một bức tường ở trong đó cũng như họ dán vàng vào các ngôi chùa của họ vây. Lúc Mai đến thì may mắn gặp được hàng trăm người tì kheo mang bình bát sắp hàng vào đền nhìn rất tôn nghiêm và xúc động.

  2. Cám ơn chị TMai – Hình đẹp quá , sao thấy lòng thanh thản mỗi khi nhìn những cảnh này.
    Have a good day , chị TMai, Looking forward to seeing you back home !

  3. It touched me in some way duoc nhin hinh anh nay qua ong kinh cua TM.
    I’ve been dreaming so many times nhung khong co duyen nen lan nao cung bi truc trac.
    Khi con o EU chua Khanh Anh co to chuc nhung chuyen di Nepal nhung bi cancel vi chien tranh giua Parkistan & India.
    Hy vong nam nay se co chua o day to chuc minh se duoc thap tung.
    Thank you for giving me so many things I was dreaming for.

  4. Doc blog cua TM lam chi nho lai khi con be chi da tung doc duoc mot cuon sach noi ve cuoc doi cuaThai Tu Tat Dat Da. Cuon sach nay day mot gang tay. Khi doc den day thi chi roi nuoc mat do.

    Thank you TM da cho chi lay lai cam giac binh yen trong tam cua minh…

  5. Cám ơn chị TM cho đọc một bài ngắn nhưng ý nghĩa. Ngày có lẽ sẽ đẹp với một khởi đầu bình yên.
    Mong chị luôn được khỏe và vui.

  6. Cảm ơn chị Mai . Hình đẹp như thường lệ !

    Chỗ này là 1 trong “Tứ động tâm” mà sao lòng không “động” được ?
    Mấy hôm nay đọc chuyện trục vong lấy tiền ở chùa Ba Vàng hoài, nay may đọc bài của chị thấy nhẹ nhàng chút.
    Chị nhắc tới “Câu chuyện giòng sông” của Hermann Hesse, làm em nhớ tới câu nói nổi tiếng của ổng ” “Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này”. Sống ở VN cần có câu này 🙂 hehehe .

    1. Hello Khoa,
      Chị đã nghĩ là mình sẽ không trở lại Nepal thêm một lần nữa khi còn ở đó vì travel quá nhọc nhằn, nhưng bây giờ thì không còn sure về những gì mình đã nói. Chị suy nghĩ nhiều sau khi về lại VN và nghĩ đến ngày mình sẽ trở lại Nepal với một tâm rộng mở hơn, mindfull hơn, không bị ảnh hưởng vì tình trạng thiếu kém tiện nghi vật chất. Nhớ lại từng chặng đi ở đó, mới biết đất nước đó đẹp quá, người ở đó lành quá, cái đáng phục là họ trông tự tại hạnh phúc trong tình trạng mà ta cho là thiếu phát triển.

  7. Tống Mai ơi, suốt tuần nay DT xem phim “Cuộc Đời Đức Phật” phim thật dài nên đến hôm may vẫn còn xem. Mặc dầu mình là một Phật tử và thuộc lòng Chuyện Đức Phật, nhưng khi xem phim này mình vẫn xúc động và khóc ở nhiều đoạn. Hôm nay bỗng được thấy Khung Cửa Hẹp hiện lên email nên DT ghé thăm TM và được đọc lại một đoạn “Câu Chuyện Dòng Sông” của Hermann Hesse. Vậy là Mai đang đi thăm nơi Đức Phật ra đời, lành thay! Nam Mô A Di Đà Phật.

  8. Vẫn như mọi khi, hình ảnh thật đẹp!
    Bài viết ngắn , nhung rất hay và thật ý nghĩa !
    Một chuyến đi nhọc nhằn……
    Và cuối cùng ,Mai cũng đã thành công với việc trãi nghiệm gian nan tại miền đất Phật .
    “ Hãy đi với trái tim của mình,
    Vì tiêu chuẩn đẹp với mỗi người là khác nhau”
    Cám ơn Mai !
    Kim Cúc.

  9. Mai ơi, “những ngày nhọc nhằn ở Nepal”??? Sao vậy Mai? Mệt lắm không?
    Nhưng chắc chắn Mai đã có những trải nghiệm thú vị và đầy mầu nhiệm khi được “thấy lại” chị mình và được cầu nguyện cho chị ấy khi đi qua nơi hiển linh! Cám ơn Mai đã cho ML đọc và nhìn những câu chuyện và khung cảnh lung link, trầm mặc và đầy sức hút… đánh thức cái mong muốn phải tìm đến đây một lần …

    1. Lan ơi, Nepal nghèo quá đổi, bụi bặm và tình trạng vệ sinh rất thấp. Đường sá hầu hết đường đất, di chuyển từ nơi này đến nơi khác toàn qua đường đèo gập ghềnh trên núi, mỗi lần đi thì hơn 10 tiếng đông hồ trên xe buýt bụi bặm dơ dáy gần như là ngày nào cũng vậy nên em bị ho và mệt lắm. Khách sạn thì cũng dơ luôn, em không quen nên rất khổ. Vì đi với một photography group nên sáng nào 4, 5, 6 giờ sáng là đã lên đường, liên tục như thế trong 10 ngày không ngủ.
      Đi xong chuyến Nepal thì rục rã cả người. Nhưng khi về đến SG thì em cảm thấy bằng lòng chính mình như đã vượt qua được một điều gì to tát lắm. Em cảm thấy bình yên vì đã đến được nơi mình mơ ước muốn đến.

  10. Khi Mai gửi bài viết về Nepal và Vườn Lâm Tỳ Ni thì Ng đang chuẩn bị để lên máy bay về Việt Nam , về đến đây từ hôm đó đến giờ đã luôn lu bu bận rộn , sáng nay thức dậy sớm mới tĩnh tâm để đọc và xem hình ảnh của Mai trong chuyến đi Nepal này .
    Chúc mừng Mai đã vượt qua được những khó khăn gian khổ trên đường đến Lumbini để hoàn thành mỹ mãn chuyến hành hương về miền đất của Phật như Mai mong muốn .
    Những hình ảnh thì vẫn đẹp như mọi lúc Mai để tâm ý để chụp hình , ở đây những nơi Mai để tâm đến đã có chứng tích là nơi Đức Phật đã ra đời , cây Vô Ưu , Vườn Lâm Tỳ Ni , Hồ Puskarini nơi mà Hoàng Hậu Maya đã tắm gội lần đầu tiên cho con trai mình thái tử Siddhartha mà tiếng Việt mình vẫn gọi là Thái tử Tất Đạt Đa .
    Có lẻ những ý niệm đó đã cho Ng nhìn thấy những ảnh đẹp của Mai mong manh sương khói , cứ sợ là có ai đó nhìn ngắm lâu hình ảnh sẽ nhẹ nhàng tan biến đi .
    Bài viết của Mai ngắn nhưng đầy ý nghĩa và thật là thú vị khi Mai cho đọc lại chương Người Lái Đò trong “ Câu chuyện Dòng Sông “ .
    Cám ơn Mai nhiều .
    Chúc tất cả ngày mới bình an .

  11. Chi cam on Mai da gui bai viet nay cho chi.
    Van cua Em “nhe ve hien” nhu Mai cua chi ngay xua!
    Thang 11 nay, chi se di An Do cung voi 79 Huynh Truong Gia Dinh Phat Tu Viet Nam tai Hoa Ky.
    Chi mong la du khoe de Hanh Huong Ve Xu Phat.
    Chi moi vua di Nhat ve hom qua, chi di 12 ngay ma chi cam thay met nen cung co y khong di An Do nua vi di den 3 tuan nhung khi doc bai Em gui thi chi lai quyet tam phai thuc hien cho duoc chuyen di nay.
    Cam on Em da cho chi them nang luc.

    1. Đi India sẽ vất vả lắm nhưng em nghĩ chị sẽ bằng lòng với chính mình vô cùng khi vượt qua được sự vất vả đó để đạt được ý nguyên của mình.
      Em chúc chị sức khỏe nhiều để tiếp tục du lịch.

Leave a Reply