June 26, 2025 (TM)
Tất cả chung quanh tôi
muôn hạt sương mờ ảo
ý gì vậy sương ơi –
mà đẫm trên tà áo
là những giọt lệ rơi…
(Saigyō Hōshi – Pháp Hoan dịch)
Bạn yêu dấu,
Nơi đó là nơi sương phủ, nhưng những giọt sương là những giọt lệ rơi và tôi không thể phân biệt được những giọt nước đang làm ướt mắt tôi là nước mắt của sương hay nước mắt của tôi.
Tôi đã viết rất nhiều về ngôi chùa này trên núi Quy Ô, chùa Linh Quy Pháp Ấn. Sau khi đã đến đó nhiều lần, lần nào cũng vậy, tôi đến lúc hừng đông để có được cảm giác không cùng chỉ có một mình tôi trong bóng đêm ngắm vũ trụ nhảy múa. Bầu trời xanh thẫm và ánh sáng màu đỏ của máu khơi dậy nỗi lẻ loi trong tôi và biến nó thành niềm hạnh phúc ngất người, dâng trào thành tiếng hát vươn lên cuồng nhiệt bằng âm sắc cao vút và mãnh liệt nhất. Tôi chỉ biết đứng im lặng trong đêm tối, bất động nhìn những đám mây đang vẽ những vệt lửa lên bầu trời, nghe cay trên mắt những giọt nước mắt rơi. Chỉ khi mang trên vai sức nặng của cô quạnh mới thấm thía được nỗi u hoài của thế giới và của chính mình chung một nghĩa bơ vơ. Không hẳn như thế đâu, chỉ cần một hừng đông nào đó đứng dưới bóng đêm sương phủ màu trắng của khăn tang thì sẽ biết sương là những giọt lệ và sự quạnh hiu là tiếng kinh cầu bình yên.
Từ ngàn dặm bờ đại dương bên này tôi thường sang bên kia để được đứng trong không gian tĩnh lặng của Quán Chiếu Đường Linh Quy vào những khoảnh khắc thiêng liêng khi bóng đêm nhường chỗ cho ánh sáng ban ngày, khi sương mù phủ lên đồi núi những vần thơ như tấm màn thưa, ngôi làng dưới thung lũng chìm vào bầu trời mờ ảo và những đồi trà trở thành những con sóng biển ẩn hiện… Thiên nhiên đã hát giai điệu tuyệt vời của mình một bí ẩn thủy tinh ánh sáng mờ ảo đưa ta vào cõi hư vô.
Tôi sẽ để lại nơi đây một mảnh hồn của mình, bởi vì nơi tôi đang ở là một ảo ảnh đầy cát bụi, chủ đề của một giấc mơ lạc lối. Người ta nói về những nơi xa xôi, kỳ lạ, nhưng tôi biết họ đã nhầm, nơi đây, chốn sương phủ mây bay này là nơi tôi muốn trở lại.
Đêm đã khuya bên này bờ đại dương. Tôi đang tạo bóng tối trong hồn mình, đêm mang hiu quạnh, đêm vợi bình yên. Tôi tìm tôi yên ổn. Tha thứ cho tôi những dòng lung tung thoát ra từ những blanche nuit này. Tôi đang miên man về ngọn núi với những cánh cổng vô môn, một quán chiếu đường hướng ra phía đông nơi có bình minh và hoàng hôn rực rỡ, một tịnh thất có khung cửa sổ có chấn song nhìn xuống thung lũng trà ẩn dưới lớp sương mù những giọt lệ rơi. Trong vòng tròn im lặng của mình, có tiếng mẹ tôi nói với tôi ngủ đi con.
Đêm, bóng tối không ấm, không lạnh.
Bonne nuit!
Dodo, l’enfant do.
Tống Mai
Virginia, June 26, 2025
LINH QUY PHÁP ẤN
Trên hàng ngàn ngọn núi, nơi đỉnh cao cô quạnh
Một mái lều xa vắng
Nửa lều, chỗ sư ở, nửa kia dành cho mây
Nửa đêm dông bão tới, thổi đám mây đi xa
Có bao gìờ mây hỏi, mình ở lâu nơi nào
(Ryokan)
Đất với trời chung một nghĩa bơ vơ
(Bùi Giáng)
Tất cả chung quanh tôi
muôn hạt sương mờ ảo
ý gì vậy sương ơi –
mà đẫm trên tà áo
là những giọt lệ rơi…
(Ryokan – Pháp Hoan dịch)
Vào xứ mây sâu
Quay đầu nhìn lại
Hư vô một màu
(Pháp Hoan)
NGƯỜI LÁI ĐÒ SUỐI TÍA
Một cái bóng vô hình in trên mặt nước, một sự cô lập rất buồn, tách biệt khỏi cuộc sống bên ngoài, người lái đò chèo thuyền trên sương mù bao phủ hồ trong bóng tối.
Chiếc thuyền nhỏ, một sợi dây trên mặt nước lúc bình minh












Những tấm hình thật tuyệt vời! Như mây, như khói, như sương … Như lòng người miên man miên man …
Ôi, cô cám ơn Miomie!
À la poursuite du rêve entre eaux et nuages.
“To persons standing alone on a hill during a clear midnight such as this, the roll of the world eastward is almost a palpable movement. The sensation may be caused by the panoramic glide of the stars past earthly objects, which is perceptible in a few minutes of stillness, or by the better outlook upon space that a hill affords, or by the wind, or by the solitude; but whatever be its origin the impression of riding along is vivid and abiding. The poetry of motion is a phrase much in use, and to enjoy the epic form of that gratification it is necessary to stand on a hill at a small hour of the night, and, having first expanded with a sense of difference from the mass of civilized mankind, who are dreamwrapt and disregardful of all such proceedings at this time, long and quietly watch your stately progress through the stars. After such a nocturnal reconnoitre it is hard to get back to earth, and to believe that the consciousness of such majestic speeding is derived from a tiny human frame.”
(Far from the Madding Crowd)
Đứng một mình trên một ngọn đồi trong một đêm trong thanh để có thể chạm tay vào dòng chảy về phía Đông của thế giới thì cảm giác rực rỡ đó chỉ có thể đạt được trong một giờ khuya khoắt. Cảm giác ngập tràn khi được tách biệt khỏi khối văn minh nhân loại bên dưới sẽ kéo dài sự vận hành uy nghiêm này thật lâu và thật lặng lẽ qua những vì sao. Sau một cuộc trải nghiệm về đêm như thế thì thật khó để quay trở lại thế giới, và khó có thể tin rằng ý thức về tốc độ đáng kinh ngạc như vậy lại xuất phát từ tấm thân nhỏ bé của con người.
Sương mù trên mặt nước, lửa trên bầu trời, nao lòng nao lòng người Mai ạ.
Nơi đó bao giờ lên cũng may mắn thấy được cảnh đó. Núi đồi Bảo Lộc quanh năm sương phủ đẹp lạ kỳ. Đây là lần thứ tư chị lên Linh Quy, không chán, vẫn còn muốn trở lại.
The village has disappeared in the evening mist
And the path is hard to follow.
Walking through the pines,
I return to my lonely hut.
(Ryokan)
“Mưa vẫn tạnh
Nhưng chân trời còn mãi
Những giọt sương
Là lệ trong mây
Sông trôi đi
Cho nước nói ngàn ngảy
Rằng biển rộng
Không bến bờ em ạ”
Đọc bài của Mai
Nhớ mấy câu thơ của BG
Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
Lời ai ru trào máu lệ bi thương?
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
Ai tóc trắng sững sờ trên tuyết lãnh
Bước chập chờn heo hút giữa chiều sương
Viên đá nhỏ mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu vết hoang đường?
(Tuệ Sỹ)
Đặt tên cho loạt hình này của Mai:
Bồng bềnh sướng khói.
Thương.
Hình “Linh Qui Pháp Ấn” của Mai lần này rất khác với những hình mấy năm về trước, nó đã vượt qua những khuôn mẫu của nhiếp ảnh thuần túy và gần với hội họa, mang màu sắc cổ điển Phương Đông, đậm chất “thơ”. Có cái gì làm người xem “buồn buồn” trong “Tĩnh Lặng”.
Cám ơn Mai .
Mấy năm trước Mai lên đó gặp bầu trời đầy kịch tính đủ màu sắc cho một bình mình lộng lẫy lý tưởng cho photography. Lần này, màu mây và sương khói quyện vào nhau mơ màng dịu dàng màu pastel nhạt rất impressionist, màu của Monet, Degas, Renoir, Cassatt… và đây là màu sắc lý tưởng cho photography của Mai.
Hình ảnh như mơ như thực với những cảm nhận tuyệt vời.
Cám ơn anh Ân.
Em hy vọng lần tới em về anh Tân vẫn cho em lên lại Linh Quy. Chưa một nơi nào em đi qua mà cảnh thiên nhiên đẹp thanh thoát thiên tiên thoát tục đến thế, đẹp chảy nước mắt, đẹp hồn phi phách tán.
Sương trong ảnh làm em thấy rất lạnh
Ảnh người chèo đò, em tưởng tượng nếu như mưa đổ xuống…(3 ảnh cuối)
Chị có bao giờ đăng ảnh mưa chưa, em không nhớ.
Chị ít chụp mưa, nếu có thì chỉ khi mưa phùn. Hai cảnh mà chị thích nhất là sương và tuyết, là lúc những gì mình không muốn thấy bị lấp sau tuyết và sương cho mình những cảnh minimalist đơn sơ theo ý muốn của mình.
Cái đẹp của sương là làm cho mình không thấy rõ cái mình không muốn thấy – “Đừng cho tôi thấy hết tim người” : )
Oh beautiful!
Love your pictures
Merci Shara!
Mấy tấm màu pastel đẹp quá Mai, nhất là tấm Tori gate, làm hồn mang mang tiên cảnh “lòng những mây bay”
Đó là cái cổng không cửa đóng “Vô môn quan” của Quán Chiếu Đường của chùa.
Có bạn hỏi tại sao lại “Vô môn quan”, chị chỉ biết trả lời theo hiểu biết khiêm nhường của chị đó là một biểu tượng của ranh giới giữa thiên giới và cõi trần, còn một biểu tượng khác là Zen, là vô thường, và muốn bước qua cổng thì khi với môt tâm không định kiến, không nhị nguyên, tâm bát nhã thì mới đạt được enlightenment.
Có lẽ Pháp Hoan nếu tình cờ thấy comment này sẽ giúp chị giải thích đúng đắn hơn.
Is that Bao Loc ?
Our Vietnam.
So very far.
And more beautiful.
Yes, chi Hang, it is B’Lao – Đường mây – Vân thâm xứ – Phương Bối Am – The way of the clouds.
“Nguyên Hưng, không phải tôi chỉ nghe tiếng gọi mầu nhiệm kia trong lúc trăng và rừng nói chuyện hay trong những cơn mưa lớn đầu mùa. Tôi lại còn nghe tiếng gọi ấy và những buổi trưa rất là yên lặng nữa. Những buổi trưa ở quê hương ta, những buổi trưa mà Lưu Trọng Lư nghe thấy cả tiếng gà não nùng xao xác gáy, những buổi trưa mà Vũ Anh Khanh thấy cả nắng lổ đổ rụng lên đầu người viễn khách ở xóm đạo vắng người. Những buổi trưa ấy miền Bắc cũng có, miền Trung cũng có, mà miền Nam cũng có.
Tôi không tin rằng buổi chiều, dù rằng những buổi chiều nhìn ra cửa biển, là lúc gợi buồn nhiều nhất.
Buổi chiều đối với tôi dù là ở đâu cũng chỉ là đẹp thôi, chứ không buồn. Chỉ có một lúc duy nhất trong ngày có thể gọi là buồn: đó là buổi trưa, vào khoảng một giờ, hay trễ hơn một chút. Buổi chiều cũng như buổi mai, bao giờ cũng linh động, biến ảo và tràn đầy sức sống. Buổi chiều đã không mang màu sắc tàn tạ như người ta thường tưởng, mà trái lại còn hứa hẹn một sức sống rạt rào vào đêm. Tôi thấy vũ trụ sống về ban đêm nhiều hơn. Ban đêm, cái gì cũng linh động, cũng mầu nhiệm, cũng hùng mạnh. Chỉ có loài người mới ngừng hoạt động trong đêm, chớ vũ trụ, từ trăng sao nước mây đến trùng dế cây cỏ đều rì rào mầu nhiệm. Nếu nói đến giờ ngưng đọng, ấy phải là giờ buổi trưa, lúc quá ngọ một chút. Không có một giọt gió. Trời cao cao quá, cao đến im lìm, cao cho đến nỗi trở nên vô cùng sâu thẳm. Cây cối như chết đứng; không nói năng được một lời nào trong giây phút ấy. Mặt trời như thôi miên trái đất và điểm huyệt trái đất bằng con mắt lửa hung hãn của nó khiến trái đất và muôn loài trên trái đất trở thành bất động không còn cựa quậy được nữa. Tôi dám chắc rằng đúng vào giờ phút ấy trái đất không thể nào còn quay được. Phải đợi cho đến khi nào có một đám mây hoặc một tí gió tới cứu vãn thì trái đất mới thoát khỏi được tình trạng bị điểm huyệt và mới có thể tiếp tục cuộc hành trình. Nếu ta thiếp đi vào buổi trưa trong một giấc ngủ ngắn mà thức dậy đúng vào giờ phút ngưng đọng ấy, thì lập tức ta nghe tiếng gọi. Tôi nghe tiếng gọi như thế đã có đến hàng trăm lần rồi Nguyên Hưng, mà lần nào trái tim tôi cũng hồi hộp như nhau. Mà vì vừa mới thiếp đi cho đến lúc chợt tỉnh tôi nghe nó không phải với lý trí của tôi mà với tất cả biển tiềm thức còn đương dâng tràn, còn chưa kịp rút xuống khỏi lằn mức ý thức. Tôi nghe tiếng vũ trụ gọi tôi về, và tất cả bản thể tôi rung động đáp lại tiếng gọi ấy.
Nguyên Hưng, ở Phương Bối tôi cũng trải qua bốn lần nghe như vậy. Rừng cây ít khi nào đứng chết lặng như trong những lúc ấy và trời không bao giờ cao như thế, sâu như thế. Trong giây phút kia, tôi thấy lòng ngập nhớ nhung và một niềm thao thức muốn trở về. Trở về theo tiếng gọi mầu nhiệm. Những lúc ấy tôi có cảm giác như đứng ở một biên giới có sương mù. Nếu tôi làm tan được sương mù ấy, tôi có cảm tưởng nó có thể tan biến trong bất cứ một sát na nào, dễ như không, dễ như nó chưa bao giờ từng hiện hữu, em ơi.”
(TNH – NVCY)
Commentaire này Mai trích từ Nẻo Về Của Ý đọc lại thấy hay quá.
Merci Mai
Buổi trưa trong những gì thầy NH viết đúng như những gì Mai cảm nhận được trong những buổi trưa ở quê nhà hồi xưa, tất cả đều ngưng đọng, chết đứng im lìm, bóng không đổ xuống mà bóng lẫn trong người, giấc ngủ ban trưa bao giờ cũng khắc khoải nặng nề như có khối đá đè lên người ngột ngạt, khi thức dậy thường buồn lịm. Mai ngạc nhiên khi đọc lại đoạn này của thầy NH, hồi xưa khi đọc không để ý, bây giờ đọc lại tưởng như đoạn văn viết cho mình
“Tôi ao ước chúng ta còn có thể duy trì được những cảnh chùa thật thanh tịnh, những buổi gặp mặt truyền tâm giữa một thầy và một trò. Tôi ưa đi vào một chánh điện thanh tịnh và nhỏ bé, một chính điện dành cho sự đối thoại cá nhân giữa con người và đức Phật. Sự đối thoại ấy mới dễ trở thành một sự đối thoại tâm linh của chính mình. Chùa chiền và giáo đường bây giờ có khuynh hướng xây cất cho sự cầu nguyện tập thể. Đó là nhu yếu. Tôi cũng khát khao sự truyền tâm giữa một thầy một trò trong đó trò biết là tất cả con người của thầy đang hướng về mình, kêu gọi sự thức tỉnh và đáp ứng nơi mình, và thầy cũng biết là trước mặt mình cũng chỉ có một trò với tất cả con người trọn vẹn và đặc thù của nó. Trong đại hội Linh Sơn, khi Phật đưa cành hoa lên thì chỉ có Ca Diếp mỉm cười. Đột nhiên đại hội Linh Sơn biến mất, sự có mặt của mọi người trở nên không có. Chỉ có hai người: Phật và Ca Diếp là những người thật sư có mặt. Đám đông Nguyên Hưng ơi, trong những trường hợp như thế, chỉ là một con số không.”
“Nguyên Hưng, tôi đã phải học thêm Duy Thức từ lúc mười sáu tuổi và cái tuổi non nớt đó không cho phép tôi hiểu thấu được những cái như kiến phần tướng phần, sở sở, duyên duyên. Rất khó mà hiểu tại sao kiến phần và tướng phần là những cái không thể rời nhau mà hiện khởi, tại sao mà chủ thể không thể tồn tại biệt lập ngoài đối tượng. Ấy thế mà hồi đó tôi cũng biết đàm luận về Duy Thức cũng làm bài thi và cũng được điểm cao. Tôi lý luận như thế này: Duy thức là nhờ vào nhận thức thì vạn hữu mới trở thành thực hữu. Không có nhận thức thì do đâu mà biết có với không tức cũng như không có gì cả. Đó, tôi chỉ cắt nghĩa ngây thơ như vậy, còn các lối giải bày khác tôi không nắm được, hoặc tôi cho là vô lý không thể chấp nhận được. Những dòng này do tôi viết và Nguyên Hưng sẽ đọc. Những dòng nầy hiện giờ Nguyên Hưng chưa đọc. Vậy thì những dòng nầy, kể cả bản chất tư tưởng tình cảm, giấy, mực, thời gian, không gian, nét chữ vân vân… chỉ nằm trong nhận thức tôi. Và cả Nguyên Hưng nữa, Nguyên Hưng đối tượng của những dòng chữ này, cũng nằm trong nhận thức tôi. Mà tất cả mọi hiện tượng khác như quê hương Việt Nam với những cây cam cây bưởi đầy hoa, những cây dừa duyên dáng những cây cau cao vút và thẳng băng, cũng như thành phố náo nhiệt tôi ở đây, cũng như mặt trời, tuyết, mây, trăng, sao… đều nằm trong nhận thức tôi. Tất cả đều là khái niệm và thế giới của tôi trong đó có Nguyên Hưng, có cây bưởi, cây chanh cây khế, cũng là một thế giới khái niệm. Vài bữa nữa thì những dòng chữ nầy tới tay Nguyên Hưng. Nguyên Hưng ssẽ thấy tôi hiện hữu trong đó, thành phố tôi hiện hữu trong đó, nhưng mà tất cả những thứ ấy cũng trở thành khái niệm trong nhận thức Nguyên Hưng và không thể được đồng nhất đối tượng của nhận thức tôi. Và ta cứ cho rằng thực tại bản chất tánh cảnh vô chất nằm trong phần căn bản của nhận thức cộng đồng, hoặc có thể gọi là tự thể phần của thức hay của thức cộng đồng cộng biến; còn thế giới khái niệm, thế giới đới chất và độc ảnh, là thế giới được tạo tác nên do khuynh hướng biến kế chấp trong đó tướng phần và kiến phần là hai mặt hiện tượng của một tự thể… Điều này tôi thấy rõ trong một buổi khuya ở chùa Trúc Lâm cách đây chưa đầy hai năm. Đêm đó tôi thức dậy lúc hai giờ rưỡi khuya và không ngủ lại được nữa. Tôi nằm yên lặng cho đến khi chuông khuya bắt đầu ngân nga mới chỗi dậy. Tôi đưa chân xuống tìm đôi dép nhưng không tìm ra, có lẽ đôi dép đã bị tôi đẩy vào gậm giường từ hồi tối. Tôi không tìm đôi dép nữa, cứ đi chân trên nền đất tìm ra cửa sổ. Nền đất lạnh gây cảm giác mát lạnh nơi gang bàn chân của tôi, và sự thấm lạnh ấy đột nhiên khiến tôi tỉnh táo và minh mẫn một cách lạ thường. Tôi đi từng bước tìm tới cửa sổ và tỳ tay nơi cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời đất vẫn còn đen tối và tôi không nhìn thấy được gì cả. Tuy nhiên trong đêm đen, tôi vẫn biết cây lá trong vườn còn đó, và bụi trúc đào cũng còn đó ở bên góc kia. Cây hoa dại vẫn còn ở trước cửa sổ tôi. Mà sở dĩ như vậy là tại vì chủ thể nhận thức không thể tồn tại ngoài đối tượng nhận thức. Trong lòng đêm thâu hay trong lòng nhận thức cũng vậy, khóm trúc, cây hoa dại đang đóng vai trò đối tượng sở duyên, chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức không thể rời nhau. Và ngoài kia, núi sông, trời đất, những ngôi sao lớn nhất, và thực hữu, và mặt trời của tôi cũng chỉ nằm trong lòng nhận thức. Đột nhiên thời gian và khoảng cách tự nhiên tiêu diệt, tan biến. Đột nhiên năng và sở tan biến. Đột nhiên diệt và sinh tan biến. Dù em có xa cách vạn muôn do tuần ấy cũng được nối liền trong một lân hư trần. Dù cho bách thiên vạn kiếp thì bách thiên vạn kiếp ấy cũng trở về nối liền với hiện tại trong một sát na. Hiện hữu của em tự nhiên trở về bừng hoa nơi nhận thức tôi. Đột nhiên tôi mĩm cười. Có lẽ lúc ấy mà có một người rình thấy được tôi đang cười trước một đêm đen không trông thấy gì, không trông thấy ai mà cũng không có gì trông thấy mình, không có ai trông thấy mình, người ấy sẽ ngạc nhiên, hoặc có thể hoảng sợ lạnh tới xương sống. Bởi vì cái cười của tôi đối với người ấy có thể có tính cách ma quái hoăïc là của một người sắp sửa điên tới nơi rồi. Có chi mà đáng mỉm cười trước một cái màn đêm đen nghịt và vô nghĩa như vậy. Nhưng Nguyên Hưng biết rằng màn đêm tuy có đen nghịt thật nhưng không vô nghĩa chút nào. Nó trở thành rạng rỡ vô cùng trong nhận thức tôi. Và hiện hữu mầu nhiệm trở thành bừng tỏa nơi nụ cười huyền diệu ấy. Tôi biết là em còn đó vì tôi còn đây và tôi biết tôi còn đây vì em còn đó. Nếu có thì năng duyên và sở duyên cùng có, nếu không thì năng duyên và sở duyên cùng không. Cho nên chủ và khách cùng thuộc về một tự thể vào trong chủ đã có sẵn khách.
Tôi biết rằng lát nữa khi bình minh về thì sẽ cũng không có gì khác lạ xảy ra trên bình diện hữu thể. Mầu trời xanh biếc phương tây và màu chân trời hồng đỏ phương đông cũng chỉ là xanh là hồng trong nhận thức tôi. Xanh không phải thuộc về tự thể xanh và hồng cũng không thuộc về một tự thể hồng. Xanh cũng có nghĩa là xanh đối với tôi, trong nhận thức tôi. Cũng như hồng. Cũng như Sinh. Cũng như Diệt. Cũng như Đồng. Cũng như Dị. Cũng như Lai. cũng như Khứ. Tất cả đều chỉ là hình ảnh nhận thức. Nhìn vào mắt tôi đi và em sẽ thấy em trong đó. Em rạng rỡ thì mắt tôi cũng rạng rỡ. Em mầu nhiệm thì nhận thức tôi cũng mầu nhiệm. Và ngược lại, tôi xa xăm thì em, hình bóng em va tự thể em, cũng trở nên xa xăm. Hãy nhìn vào mắt tôi thì em sẽ biết vũ trụ của tôi sáng hay tối, thiện hay ác, vô cùng hay hữu hạn, sinh tử hay niết bàn. Có lần Trụ Vũ nói:
Bởi vì mắt thấy trời xanh
Cho nên mắt cũng long lanh mầu trời
Bởi vì mắt thấy biển khơi
Cho nên mắt cũng xa vời đại dương.
Nguyên Hưng, khi nụ cười trong đêm thâu bừng nở rồi thì tôi có cảm giác nhẹ nhàng như mây khói và tôi thấy tôi nằm ngữa bơi nhẹ nhàng trên một giòng suối trong mát lạnh. Đầu tôi gối trên những chiếc gối sóng nhỏ. Nhìn lên trời tôi thấy trời xanh mây trắng của ngày cũ. Mây vẫn trắng, trời vẫn xanh. Mây có thể trắng hơn và trời có thể xanh hơn. Đó phải chăng là dấu hiệu của thực tại bất sanh bất diệt? Tôi nghe lá thu khô xao xác trong rừng cây, tôi ngửi thấy hương thơm ngất ngây của cỏ rơm đồng nội.
Những cảm giác ấy thoáng qua mau khi tôi trông thấy một ngôi sao trên trời. Ngôi sao đưa lối cho tôi trở về trước cửa sổ, hai chân trên nền đất mát và hai bàn tay tỳ lên song cửa. Tôi còn đây, tôi hiện hữu cho thế giới hiện hữu, cho em hiện hữu. Cũng như hòn sạn kia, cũng như đám mây kia. Sự hiện hữu của chúng kéo theo sự hiện hữu của tôi. Và nếu viên cuội kia mà không thật sự hiện hữu thì tôi đây làm sao hiện hữu được? Đã có thì có từ hạt bụi. Mà hạt bụi đã không thì tam thiên đại thiên thế giới cũng không. Tôi cũng không. Em cũng không.
Nguyên Hưng, tôi thấy tôi rất bằng lòng cái quê hương này của chúng ta. Dòng sông kia là hình bóng trôi chảy dịch hóa của vạn tượng. Nhờ có sự trôi mà có sự sống. Sự chết cũng nằm trong sự Sống bởi vì không có chết thì không thể có sống. Hoan nghênh sự trôi chảy. Hoan nghênh vô thường vô ngã. Bởi vì có vô thường vô ngã nên mới có thế giới đẹp đẽ của thi ca của thiền. Và còn vườn chuối của đồng bằng kia nữa. Hình bóng của êm mát, ngọt ngào, hiền lành. Và cũng còn những hàng cau thơm ngát… Mặt trái đất sở dĩ đầy tràn cát bụi, là vì chúng ta chỉ nhìn xuống cát bụi. Không, tôi không muốn rời bỏ chốn này để đi về cực lạc hay thiên đường. Quê hương của tôi là đây, ngay trên mặt đất. Chỉ cần ngẫng đầu nhìn lên là tôi trông thấy trăng sao của đêm rằm, của tâm linh. Chính vì được ở đây, vì được dứng đây nên tôi mới thấy được như thế. Điều quan yếu không phải là từ giã, chối bỏ, trốn tránh. Điều quan yếu là nhận thức ra rằng hễ mắt ta mở thì ta trông thấy… Cảnh giới niết bàn quyết định có đủ những thứ cây như cây bàng, cây cau, cây khế, cây chanh, cây bưởi. Tôi thấy như thế. Và tôi buồn cười quá. Tôi buồn cười cho chính tôi, ngày xưa, đã đi tìm niết bàn như một cái gì cách biệt và trái chống với thế giới sinh diệt… Chân như hiển hiện mầu nhiệm nơi tử sinh.”
(NVCY – Chuong 9)
Có bao giờ Mai nghĩ đến tại sao lại là “Nẻo Về Của Ý” không?
“Nguyên Hưng cũng biết rằng cái cuốn Tỳ Ni Nhật dụng ấy là một thứ sách “binh pháp nhập môn” của chúng ta; thứ sách khi chúng ta mới được gia nhập thiền môn thì chúng ta phải lấy ngay sách đó làm sách gối đầu giường. Nó chỉ cho chúng ta nắm lấy tâm ý của chúng ta. Trong những phương pháp động tác thường nhật như ăn uống, đi đứng, nằm ngồi, làm việc… Chúng ta phải tự theo dõi chúng ta, dò kiếm những dấu chân và công việc đó khó khăn như công việc dò theo dấu chân trâu để tìm ra con trâu lạc. Dễ gì mà dò biết được lối đi nẻo về của tâm của ý. Tâm ý chúng ta cũng như con vượn chuyền cành. Nó chuyền cành này sang cành khác, thoan thoát mau lẹ. Bắt được nó không phải là chuyện dễ, nhưng công việc ở đây không phải là công việc bắn chết. Công việc ở đây không phải là công việc dọa dẫm, ép buộc. Công việc ở đây là biết được đường đi nẻo về của nó, để không cần dọa dẫm ép buộc mà vẫn có thể đi sát với nó, có nó trong tay bất cứ lúc nào mình muốn. Cuốn sách mỏng đó cho ta những biện pháp đầu để đối phó, hồn nhiên mà vô cùng hiệu lực. Nó dạy ta quan sát và điều phục theo một đường hướng rất thich hợp thiên nhiên tất cả mọi động tác thân thể ngôn ngữ tâm lý của chúng ta. Khi ta đưa hai bàn tay vào chậu nước trong chẳng hạn, nó dạy ta làm phát khởi trong có một tư tưởng trong sáng, tin tưởng và ý thức: “Khi tôi rửa tay bằng nước trong, tôi ước ao bằng mọi người trong chúng ta đều được hai bàn tay tinh khiết để có thể tiếp nhận và duy trì chân lý”. Và trong tất cả mọi động tác, những tư tưởng trong kia đến cùng với ý thức minh mẫn, để tạo nên chánh niệm làm cho mọi động tác thường được coi là tầm thường nhất như đi vệ sinh, hốt rác, chặt cũi… cũng trở nên thánh thiện. Tràn ngập tính chất thi ca và nghệ thuật. Za-zen. Thiền thì đâu cần ngồi. Cuộc đời không phải để mà ngồi dù ngồi chín năm xây mặt vào vách cũng thế. Ngồi chỉ là những bước đầu. Cũng vì vậy mà chúng ta đã được hướng dẫn nấu cơm, rửa bát không chỉ là để có bát sạch. Nói cho đúng mức ngôn ngữ, thì nấu cơm không phải để có cơm, rửa bát không phải để có bát sạch. Và nấu là nấu chứ không phải là nấu cho xong, rửa là rửa chứ không phải là rửa cho xong với ý định là làm cho xong kẻo mệt, làm cho rồi bổn phận, để mà nghỉ, để mà tham thiền, thì việc làm ấy sẽ là hư công, vô ích, không nghĩa gì đối với thiền học. Rửa bát, quét lá trước sân, những việc ấy phải là thiền, là tu, là con đường thành Phật. Thành Phật không do sự lễ lạy, cúng vái ngồi “thiền”. Thiền là ăn, là thở, là nấu cơm, là gánh nước, là chùi cầu vệ sinh. Thiền là dọi ý thức minh mẫn vào mọi động tác thân khẩu ý, là làm cho rạng rỡ những chiếc lá khô, những viên sỏi nhỏ, những đống phân bón, những cành cũi mục… làm cho rạng rỡ tất cả mọi đường đi nẻo về của tâm, của ý. Cho nên Nguyên Hưng biết rằng nắm được cái kỹ thuật nấu cơm, rửa bát, quét sân và nhặt củi ấy thì mới mong xuống núi làm chàng dũng sĩ. Một chàng dũng sĩ như thế thì có thể cười đùa trước các vũ khí của cuộc đời như tiền bạc, danh vọng và quyền thế. Một chàng dũng sĩ như thế thì có thể ngồi trên những đợt sóng thành bại mà không bị đưa lên dìm xuống bởi những đợt sóng thành bại và một chàng dũng sĩ như thế ít ai biết là một chàng dũng sĩ.”
(NVCY – Chuong 9)
“The road is too long
The sky is too vast
The wandering heart
Is homeless at last.”
(What happens to the heart – L. Cohen)