Biên Khảo về Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan (Chánh Thất của Vua Gia Long) – Tôn Thất Tài

April 10, 2017 (TM) – Updated: Jan 18, 2020 (TM)

Cám ơn anh Tôn Thất Tài rất nhiều đã bỏ công biên khảo bài này cho Mai.
Bài viết rất súc tích. Có những điều anh biên khảo mà Mai chưa được biết về Bà.

Hai lần lên thăm mộ Bà là hai lần xúc động.  Nhìn hai ngôi mộ của Bà và Vua nằm cạnh nhau mà ngạc nhiên vì đây là duy nhất trong các vua chúa thời Nguyễn mà mộ hoàng hậu được đặt nằm cạnh mộ vua. Đúng là một sự sủng ái.

Tống Mai
April 10, 2017

Hôm nay Mai update bài này để cảm ơn một lần nữa nhã ý của anh Tài đã biên khảo bài này. Tình cờ đọc lại, bỗng nhiên dâng lên trong lòng một niềm thán phục và thương kính đối với Bà. Mai không biết làm gì hơn là giới thiệu lại hình ảnh người đàn bà phi thường và hiền hậu này, bổ túc thêm một vài tấm hình cho lăng vua Gia Long, và để ghi ân anh Tài một lần nữa.

Tống Mai
Jan 18, 2020

 

Biên Khảo về Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan
(Chánh Thất của Vua Gia Long)
Tôn Thất Tài

Thiên Thọ Lăng (Lăng Vua Gia Long) Photo: Tống Mai

 

VÀI NÉT VỀ DÒNG HỌ TỐNG

Cũng như các dòng họ khác theo Chúa Nguyễn vào Nam để lập nghiệp và khai phá đất phương Nam kể từ Nguyễn Hoàng hầu hết đều có Tổ Quán tại tỉnh Thanh Hóa, dòng họ Tống cư ngụ tại làng Bùi Xá, tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, đây là vùng Địa Linh Nhân Kiệt và là nơi xuất phát của những cuộc di dân về phương Nam theo các Chúa Nguyển kể từ Nguyễn Hoàng (Hoành Sơn Nhất Đái Vạn Đại Dung Thân).

Vào năm 1660, Ngài Tống Phước Triều Đô Hầu đưa toàn bộ gia quyến vào đàng trong dưới triều đại Chúa Nguyễn Phúc Tần, vị Chúa đời thứ 4, trấn thủ phương Nam và thường gọi là Chúa Hiền (1648-1687) nhập tịch tại làng Kim Long Thừa Thiên Huế. Lúc này tại đây đã có 11 họ từ miền ngoài di tản vào theo các tiền Chúa để khai phá đất phương Nam. Hậu duệ các đời sau của họ Tống đều sống tại Kim Long và đây cũng được xem là Tổ Quán của dòng họ Tống Phước với ông Tống Phước Triều là Thủy Tổ.

Dòng họ Tống trước đây ở Thanh Hóa là một dòng tộc nhiều đời làm quan võ. Con cháu Tống Phước đều là Gái Trâm Anh Trai Tuấn Kiệt. Do vậy khi di dân vào Nam vẫn mang theo tính cách ấy do trước đây rất nhiều bà họ Tống đã trở thành Hoàng Hậu, Phi Tần và họ Tống đã làm thông gia vơi các hoàng tộc nhà Lê và nhà Nguyễn. Các trai họ Tống tài hoa nên nhiều người đã là Phò Mã, Quận Công làm quan võ theo các Chúa Nguyễn đánh đông dẹp bắc từ thời Tiên Chúa Nguyễn Hoàng.

THÂN THẾ BÀ TỐNG THỊ LAN (1761-1814)

Một điều lạ trong lịch sử mà cho đến nay chưa một ai lý giải được?
Như chúng ta đã từng biết trong lịch sử triều Nguyễn chỉ có hai Hoàng Hậu:
* TỐNG THỊ LAN: THỪA THIÊN CAO HOÀNG HẬU (Chánh thất Vua Gia Long đầu triều Nguyễn)
* NGUYỄN HỮU THỊ LAN: NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU (Chánh thất Vua Bảo Đại cuối triều Nguyễn)

Điều lạ :
– Trong 11 đời Vua còn lại không có tước phong Hoàng Hậu mà chỉ có tước phong Hoàng Quý Phi để phụ giúp Hoàng Thái Hậu lo việc nội cung?

– Cả hai Hoàng Hậu đều có cùng tên LAN và cuộc đời của hai Hoàng Hậu đều có đầy truân chuyên trắc trở.

– Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan hơn 20 năm theo Nguyễn Ánh bôn ba cực khổ khắp nơi mà hậu vận phúc mỏng ở tuổi hưởng dương 53 khi Gia Long thâu tóm giang sơn, hơn nữa con chết cả hai Hoàng Tử và cháu nội sau này cũng không được truyền ngôi mặc dù triều thần đề xuất mà kế vị lại chính là Minh Mạng (con thứ phi) một thời đã được Tống Thị Lan làm mẹ nuôi và qua cung Hoàng Hậu sống với Bà từ thời thơ ấu. Sau nữa tất cả gia quyến ba đời đều bị biến thành thứ dân. Một bi kịch (sẽ nói rõ ở phần thân thế và sự nghiệp Tống Thị Lan).

– Nam Phương Hoàng Hậu Nguyễn Hữu Thị Lan một sắc nước hương trời của miền Nam sống không hạnh phúc bên Ông Vua đào hoa, hào hoa phong nhã để rồi sống và chết trong cô đơn trên đất khách quê người.

Thân thế Bà Tống Thị Lan:
1/ Thân Phụ: Bà là con của Quy Quốc Công Tống Phước Khuông chức Thái Bảo tước Quận Công.  Năm 1778 Ông đưa gia quyến từ Kim Long Thừa Thiên Huế vào Gia Định vì lúc đó Tây Sơn đại thắng Phú Xuân tình hình không yên ổn và Ông quyết chí theo phò triều Nguyễn. Tống Thị Lan theo cha lúc này đã 18 tuổi sắc nước hương trời.  Chính Nguyễn Ánh lúc đó đang ở Gia Định cố thủ để đánh Tây Sơn đã nhờ Thân Mẫu là bà Thiếu Khương vợ của Nguyễn Phúc Luân đến cưới hỏi và lập làm Nguyên Phi vì bấy giờ Nguyễn Ánh chỉ xưng Chúa tại miền Nam.

Bài vị thờ và lăng mộ Ông Tống Phước Khuông tại Long Hồ Thừa Thiên Huế

Tống Phước Khuông lúc này là một vị Tướng đã cùng với Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Tôn Thất Hội ( Bình Tây Đại Nguyên Soái) và một số tướng lĩnh khác bôn ba xây dựng cơ đồ có lúc phải chạy ra Phú Quốc hoặc Xiêm La để lánh nạn khi Tây Sơn truy quét đánh thành Gia Định.

2/ Thân Mẫu:

Mẹ Bà là Lê Thị Hài (hiệu là Thục Thận) người làng An Quán, nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn Quảng Nam. Sử nhà Nguyễn có ghi bà là gốc họ Nguyễn Hữu không phải họ Lê. Tại sao lại cải họ?

Nhà thờ họ Nguyễn Hữu ở làng An Quán vẫn còn thờ bà và gọi là Bà Gia Long? Và trong văn tế có ghi “Lê Hầu Chánh Thất Nguyễn Thị Thục Nhơn”. Trong lịch sử triều Nguyễn còn ghi là Vua Minh Mạng được bà Trần Thị Đáng (sau này được phong Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu khi Bà Tống Thị Lan đã mất) sanh ra tại nhà bà Lê Thị Hài và ông Tống Phước Khuông ở làng An Quán và đây cũng chính là quê ngoại của Tống Thị Lan (Đích mẫu của Vua Minh Mạng). Chính sự việc này mà về sau Gia Long giao cho Vua Minh Mạng cho bà Tống Thị Lan làm con nuôi của bà. Mọi việc có lẽ như duyên Trời định nên về sau Minh Mạng được kế vị thay cho con cháu của Hoàng Tử Cảnh là dòng đích Tống Thị Lan.

3/ Kế Mẫu:  Theo Nguyễn Phước Tộc thế Gia Phả ghi lại.
Mẹ kế của Tống Thị Lan là Công Chúa Nguyễn Ngọc Quận, thụy là Trinh Thục đã hạ giá lấy ông Tống Phước Khuông. Công Chúa Nguyễn Ngọc Quận là con gái thứ 6 của Chúa Nguyễn Phúc Khoát Vũ Vương (Chúa thứ 8). Sau vì cảnh chung sống không thuận hòa bà bỏ về Quảng Ngải và trên đường đến Bảo Tân bị giặc Tây Sơn bắt dìm nước tại Hội An Quảng Nam lúc đó mới 25 tuổi. Tôi tớ theo hầu nhặt hài cốt đem về an táng tại Hội An. Đến năm 1805 Gia Long cho di dời về núi Thiên Thai làng An Cựu Thừa Thiên Huế vì vai vế của Công Chúa là Cô ruột của Vua Gia Long (em của cha Nguyễn Ánh).

Giữa khu đồi Thiên Thai mộ bà xây bằng đá vôi với tấm bia đá cô quạnh khắc ghi: Hoàng Việt Tiền Triều Đệ Thất Hàng Công Chúa Nguyễn Thị Ngọc Chi Mộ. Đây là dấu tích một Công Chúa triều đại nhà Nguyễn về làm dâu nhà họ Tống và là kế mẫu của bà Hoàng Hậu Tống Thị Lan đã trở thành dư âm đang lắng chìm trong hoang sơ và thấp thoáng thời gian phủ mờ. Bà có một người con là Tống Phước Lương được phong Vĩnh Thuận Hầu và đây là em cùng cha khác mẹ với Tống Thị Lan. Có lẽ oan khiên này đã tạo nghiệp cho dòng họ Tống sau này không còn là hoàng thân quốc thích của triều Nguyễn kể từ đởi Vua Minh Mạng và dần dần xem như dòng đích của bà Tống Thị Lan tuyệt tự (sẽ nói ở phần sau).

4/ Bà Tống Thị Lan Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu:

Tống Thị Lan tên tự là Liên (1761-1814), được phong Hoàng Hậu năm 1806, thụy là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu.
– Năm 1774, xảy ra biến cố ở Phú Xuân do Tây Sơn đánh chiếm Phú Xuân bà theo cha vào Nam đến ở Gia Định.
– Năm 1778, bà tròn 18 tuổi và được Chúa Nguyễn Ánh làm lễ cưới tấn phong là Nguyên Phi như phần trên đã nói.

Bà là một người rất thận trọng lễ phép cư xử đúng lễ nghi của con nhà Trâm Anh Thế Phiệt và rất bao dung trong họ hàng Hoàng Tộc nên được Nguyễn Ánh rất sủng ái.
– Năm 1783, Tây Sơn đánh Gia Định Nguyễn Ánh phải bôn tẩu cùng gia đình chạy ra đảo Thổ Chu thuộc quần đảo Phú Quốc. Lúc này bà đã sanh hạ Hoàng Tử Cảnh được 3 tuổi cùng theo mẹ lánh nạn. Trong tình thế cô lập Nguyễn Ánh đã giao Hoàng Tử Cảnh cho Giáo Sỹ Bá Đa Lộc làm con tin để sang Pháp cầu viện.

Trong cảnh chia ly Nguyễn Ánh đã chặt đôi nén vàng (20 lượng) mỗi người giữ một nửa và nói với bà: “Con chúng ta đã đi rồi, ta cũng sẽ đi đây, Phi hãy phụng dưỡng Quốc Mẫu chưa biết sau này gặp ở nơi nào và ngày nào. Hãy giữ một nửa thoi vàng này làm tin.” Bà nuốt nước mắt nhận trọng trách phụng dưỡng mẹ chồng và chăm sóc gia tộc Nguyễn triều suốt thời gian Nguyễn Ánh bôn tẩu. Bà là một người vợ đúng nghĩa đã đồng cam cộng khổ suốt 20 năm trong thời Gia Long lập quốc, là người thân hậu, cần kiệm, biết thương yêu mọi người, trong suốt thời gian hầu hạ mẹ chồng bà còn tự cắt may nhung phục cho quân lính.

– Năm 1788, khi Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định bèn cho người ra Côn Đảo đón bà và gia quyến về, từ đó Nguyễn Ánh thân chinh ở đâu bà đều theo ở đó.
Trong môt trận giao tranh giữa quân Nguyễn và Tây Sơn tại Trấn Biên Hòa (trong lúc Nguyễn Ánh đang giải vây thành Quy Nhơn và chiến đấu thủy chiến ở cửa biển Thị Nại) quân Nguyễn có phần nao núng thế muốn rút lui bà đã tự tay đánh trống thúc quân và quân Nguyễn hăng hái trở lại xông lên đánh thắng giữ vững Trấn Biên Hòa. Một điều mà xưa nay trong quân pháp không bao giờ cho phụ nữ cầm trống thúc quân vì việc này chỉ dành cho hàng tướng tiền phương. Điều này làm cho Gia Long kính nể bà và sau này tin cẩn cho đươc bàn việc quân với ông khi cần. Đây cũng là một ngoại lệ thứ hai mà bà Tống Thị Lan có được trong Hoàng triều ngoài việc cầm trống lệnh thúc quân.

– Năm 1793, bà được Gia Long tin cẩn do tính nghiêm trang, đạo đức và bao dung của bà thể hiện sau bao năm chăm sóc cho gia tộc nên đã đề nghị bà làm mẹ nuôi của hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm (Vua Minh Mạng sau này) mặc dù mẹ của Minh Mạng là bà thứ phi Trần Thị Đang (sau này được phong Thuận Thiên Hoàng Hậu khi bà Tống Thị Lan đã mất) vẫn còn khỏe mạnh và trẻ trung. Bà đã đồng ý nhưng với điều kiện Gia Long phải làm giao ước và ông đã đồng ý từ đó Minh Mạng về ở hẳn với bà chịu sự giáo dục của mẹ đích. Điều này chứng tỏ bà là một người vị tha giàu lòng nhân ái chỉ có ở những bậc có giác hạnh từ bi hỷ xả trong căn nguyên. Một câu hỏi đặt ra là tại sao Gia Long đã yêu cầu điều này từ bà Tống Thị Lan? Đó chính là mấu chốt của vấn đề mà về sau các sử gia mới có nhận định Gia Long là bậc Thiên Tử thấy được hậu vận của nhà Nguyễn không phải là Hoàng Tử Cảnh con của chánh thất Tống Thị Lan mặc dù lúc đó Hoàng Tử Cảnh đã khôn lớn.

Chính Hoàng Tử Cảnh đã được sự nuôi dưỡng và giáo dục của bà Tống Thị Lan mà sau này mới có cốt cách của một Vương Tử và Gia Long đã chuẩn bị cho hai vị Thái Tử sau này một là Hoàng Tử Cảnh và hai là Hoàng Tử Đảm với ẩn ý là cả hai đều phải được chịu ảnh hưởng của một tánh cách bà Tống Thị Lan mà ông đã thán phục trong suốt cuộc đời lập vị Đế Vương của ông. Việc chuẩn bị cho hai Thái Tử của Gia Long quả là Trời cho ý? Và hồi sau mới thấy điều này khi chính Hoàng Tử Đảm là nối ngôi Thiên Tử và trở thành Vua Minh Mạng.

– Năm 1806, bà Tống Thị Lan mới được phong Hoàng Hậu với tước là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu với hàm ý là Ta đã thừa theo Mệnh Trời cho Ta vị Hoàng Hậu với những gì cao quý nhất thiên hạ. Gia Long rất thận trọng trong việc giao cho Tống Thị Lan và Mẫu Hậu coi việc hậu cung với hơn 100 phi tần. Chỉ có chức Phi Tần chứ không có chức Hoàng Phi vì danh xưng Hoàng chỉ dành cho Hoàng Hậu điều này chứng tỏ Gia Long rất coi trọng bà Tống Thị Lan chỉ sau khi bà Tống Thị Lan mất đi (1814) thì bà Thứ Phi Trần Thị Đang mẹ Vua Minh Mạng mới được phong Hoàng Hậu với tước là Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu hàm ý là thuận theo ý Trời Ta lập Hoàng Hậu cao quý nhất thiên hạ sau khi mệnh Trời không cho Ta sống với Hậu Tống Thị.

– Tiếc rằng Hoàng Hậu Tống Thị Lan hưởng phúc không bao lâu cho dù đã đóng góp cho Gia Long biết bao công sức để xây dựng cơ đồ nhà Nguyễn để khi khải hoàn thì vắng số bà đã qua đời năm 1814 hưởng dương 53 tuổi.
Gia Long rất thương tiếc và đã rơi nước mắt trước quần thần (lệ Vương xưa nay hiếm) Ông đã ra lệnh cử hành Quốc Tang và tự nguyện để tang một năm. Trong lễ Thành Phục ngoài Hoàng Tử Cảnh, Gia Long bắt Hoàng Tử Nguyễn Phúc Đảm cùng dâng lễ Điện như là con chính thức của Hoàng Hậu Tống Thị Lan vì một lẽ dễ hiểu bà Tống Thị Lan là mẹ nuôi của Minh Mạng như Gia Long đã giao ước. Theo nghi lễ thời đó thì khi mẹ ruột còn sống thì con không được dâng lễ Điện trong lúc thành phục (vẫn được để tang) với người khác, ngoại trừ cha hoặc chành Hoàng tộc mà lễ này được để dành cho mẹ ruột. Điều này chứng tỏ một lần nữa Gia Long tôn trọng và quý mến bà Tống Thị Lan như thế nào.

 

Thiên Thọ Lăng. Song táng Vua Gia Long và Hoàng Hậu Tống Thị Lan. Photo: Tống Mai

 

Chưa hết, khi mai táng bà Tống Thị Lan, Gia Long đã phá lệ phong kiến của từ ngàn xưa là trọng nam khinh nữ (phụ nữ không được tham gia triều chính, không được ăn cùng mâm với chồng, không được ngủ cùng chồng chái trên trong nhà 3 gian v.v và v.v ) Ông đã ra lệnh chôn bà Tống Thị Lan trong lăng Thiên Thọ của Ông mà trước đây đã xây dựng và đươc gọi là song táng mặc dù triều thần đều can ngăn rất quyết liệt. Ông nói : Ta táng theo thuyết Càn Khôn Hiệp Đức và từ đó có câu Sống Đồng Tịch Đồng Sàng Chết Đồng Quan Đồng Quách. Chính có Hiệp Đức mà sau này nhà Nguyễn mới truyền ngôi 143 năm với 13 triều Vua cho đến cáo chung vào 1945 với vị Vua cuối cùng là Bảo Đại.

Vua Gia Long thật là một Quân Vương có một chân tình có một không hai trong thiên hạ.
Hoàng Hậu Tống Thị Lan là một Mẫu Nghi bật nhất thiên hạ.

PHẦN BA : HẬU DUỆ CỦA BÀ TỐNG THỊ LAN

Bà Tống Thị Lan sanh được với Gia Long 2 Hoàng Tử.
1/ Nguyễn Phúc Chiêu mất sớm.
2/ Nguyễn Phúc Cảnh (Sanh 1780- Mất 1801)
Năm 1793 được lập làm Đông Cung Thái Tử.
Năm 1801 Gia Long gần thu phục giang sơn thì bị bệnh đậu mùa và mất.
Năm 1801 Gia Long gần thu phục Giang sơn thì bị bệnh đậu mùa và mất. Điều này tiên báo một bất hạnh cho bà Tông Thị Lan.
Khi Hoàng Tử Cảnh mất Gia Long đang ở mặt trận miền ngoài lo chiếm Thành Phú Xuân nên không về dự đám tang con được oái ăm thay cho vị Hoàng Tử được bà Tống Thị Lan nuôi dạy bao ngày.

Nếu luận về Mệnh của Hoàng Tử Cảnh cũng như là của Hoàng Hậu Tống Thị Lan thì có 2 lần bạc phước :
Mới 3 tuổi con đã phải xa mẹ và mẹ cũng xa con khi Hoàng Tử đầu đã chết để lênh đênh chân trời góc biển vào thời bấy giờ thì biết khi nào trùng phùng với giao thương bắng đường thủy đó là bạc phước thứ nhất.
Ở ngôi Thái Tử chưa bao lâu thì bị bệnh mà chết khi tuổi còn thanh xuân 21 tuổi đó là bạc phước lần 2.
Có phải là bạc phước cho cả hai mẹ con Hoàng Hậu và Thái Tử không? Mệnh Trời cho và rồi Trời lấy lại.

3/ Vợ và con của Hoàng Tử Cãnh :
– Vợ Hoàng Tử cảnh cũng là con gái nhà họ Tống đó là bà Tống Thị Quyên.
– Con của Hoàng Tử Cảnh là : Nguyễn Phúc Mỹ Đường (Nguyễn Phúc Đán) và Nguyễn Phúc Mỹ Thủy.
Khi Gia Long đang ở ngôi và bà Tống Thị Lan đã mất thì lúc đó Gia Long tuổi đã cao nên quần thần đề nghị nên lập Nguyễn Phúc Đán (Cháu nội của Gia Long và dù sao cũng là dòng chánh hệ của Hoàng Hậu Tống Thị Lan) lên vị trí kế thừa gọi là trừ vị chứ không là Thái Tử được vì đó là vị của cha nhưng Gia Long không nghe và Ông đã lập Hoàng Tử Nguyễn Phúc Đảm em của Hoàng Tử Cảnh lên ngôi và sau này là Vua MInh Mạng.
Như vậy là từ đây dòng thứ của bà Trần Thị Đang lên ngôi và là lúc chấm dứt thời của dòng họ Tống.
Thật vậy đúng là họa vô đơn chí phước bất trùng lai cho hậu duệ của Hoàng Tử Cảnh và Hoàng Mẫu Tống Thị Lan.
Năm 1824 có người tố cáo Nguyễn Phúc Đán thông dâm với mẹ là Tống Thị Quyên vì thế bà bị Vua Minh Mạng ra lệnh cho Lê Văn Duyệt dìm nước cho đến chết còn Nguyễn Phúc Đán thì bị biếm thành thứ dân.
Năm 1826 Nguyễn Phúc Mỹ Thủy bị bênh chết chưa có con cái.
Nguyễn Phúc Đán có một người con là Lệ Chung và một số cháu trưc hệ cũng đều bị giáng làm thứ dân.
Năm 1836 Nguyễn Phúc Đán mất dòng dõi Hoàng Tử Cãnh và con cháu của bà Tống Thị Lan mới được yên thân ở phận thường dân.

KẾT LUẬN

Cuộc đời của Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan gặp nhiều gian truân trắc trở cho dù công lao to lớn và vĩ đại của bà là Phò Vua (Gia Long) và Dạy Vua (Minh Mạng) góp phần không nhỏ thậm chí có thể nói là 50% trong sự nghiệp của Vương triều Nguyễn sau này. Có 143 năm Vương Triều nhà Nguyễn thì phải nhớ đến bà Thừa Thiên Hoàng Hậu Tống Thị Lan.

Con cháu của bà thuộc dòng đích nhưng đều chịu nhiều cay đắng và trầm luân dưới thời Minh Mạng khi Minh Mạng củng cố Vương quyền. Thế mới biết mệnh Trời cho Bà thật là oan khốc. Chính Gia Long cũng không chọn cháu đích tôn là con Hoàng Tử Cảnh lên nối ngôi mà chọn Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi khi con thứ Phi đã từng được bà Tống Thị Lan nuôi dạy?  Minh Mạng và Hoàng Tử Cảnh là anh em ruột có thể nói là cùng cha cùng mẹ (Bà Tống Thị Lan đã được Minh Mạng nhận làm mẹ nuôi có giao ước của Gia Long) mà lại can đảm giết chết chị dâu là bà Tống Thị Quyên vợ của anh mình và đày đọa con cháu mấy đời sau này cho đến khi Nguyễn Phúc Đản con của Hoàng Tử Cảnh chết 1836 mới yên cuộc củng cố vương quyền.  Một ai đó trong lịch sử đã nói: Phàm đã là Hoàng Đế thì chẳng bao giờ dung tha cho dòng họ của mình. Thật đau xót cho một bậc Đệ Nhất Mẫu Nghi Thiên Hạ.

Cuối cùng người biên khảo xin một ai đó ở Cố Đô Huế hay khách viễn phương có đến thăm Lăng Gia Long (Thiên Thọ Lăng) trong dịp Thanh Minh Đinh Dậu này xin thắp giùm một nén nhang cho bà Tống Thị Lan như là một lời tri ân của đại diện hâu thế Nguyễn triều với công lao xây dưng triều Nguyễn.

Tôn Thất Tài
(Hệ 7 Phòng Lạng Giang Quận Công Bình Tây Đại Nguyên Soài Tôn Thất Hội)
08/4/2017

 

Lăng Gia Long – Photo: TốngMai
Lăng Gia Long – Photo: TốngMai
Lăng Gia Long – Photo: TốngMai
Lăng Gia Long – Photo: TốngMai
Lăng Gia Long – Mai. Photo: Quyet Lan
Lăng Gia Long – Mộ HH Tống Thị Lan bên trái và Vua Gia Long bên phải – Mai. Photo: Vĩnh Bá

 

 

9 thoughts on “Biên Khảo về Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan (Chánh Thất của Vua Gia Long) – Tôn Thất Tài

  1. Tối nay Ng mới vào đọc kỹ lại bài biên khảo của Tài về Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống thị Lan.
    Tài thật chịu khó tìm kiếm để biên soạn lại những chi tiết lịch sử mà trước đây ít người biết tới , cám ơn Tài nhiều nghe .
    Một biên khảo thật công phu và giá trị.

  2. Chị ơi,

    Em đọc bài này và hiểu biết về Hoàng Hậu Tống Thị Lan. Trang web này họ đăng lại và xử dụng photos của chị và credit chị.

    nghiencuulichsu.com/2017/05/12/thua-thien-cao-hoang-hau-tong-thi-lan/

    “Tiếc rằng Hoàng Hậu Tống Thị Lan hưởng phúc không bao lâu cho dù đã đóng góp cho Gia Long biết bao công sức để xây dựng cơ đồ nhà Nguyễn để khi khải hoàn thì vắng số bà đã qua đời năm 1814 hưởng dương 53 tuổi. Gia Long rất thương tiếc và đã rơi nước mắt trước quần thấn (Lệ Vương xưa nay hiếm) Ông đã ra lệnh cử hành Quốc Tang và tự nguyện để tang một năm.

    Chưa hết, khi mai táng bà Tống Thị Lan, Gia Long đã phá lệ phong kiến của từ ngàn xưa là trọng nam khinh nữ ( phụ nữ không được tham gia triều chính, không được ăn cùng mâm với chồng, không được ngủ cùng chồng chái trên trong nhà 3 gian v.v và v.v ) Ông đã ra lệnh chôn bà Tống Thị Lan trong lăng Thiên Thọ của Ông mà trước đây đã xây dựng và đươc gọi là song táng mặc dù triều thần đều can ngăn rất quyết liệt. Ông nói : Ta Táng theo thuyết Càng Khôn Hiệp Đức và từ đó có câu Sống Đồng Tịch Đồng Sàng Chết Đồng Quan Đồng Quách. Chính có Hiệp Đức mà sau này nhà Nguyễn mới truyền ngôi 143 năm với 13 triều Vua cho đến cáo chung vào 1945 với vị Vua cuối cùng là Bảo Đại.

    Vua Gia Long thật là một Quân Vương có một chân tình có một không hai trong thiên hạ.

    Hoàng Hậu Tống Thị Lan là một Mẫu Nghi bật nhất thiên hạ.”

    1. So sánh các chuyện thâm cung bí sử với các nước khác, Anh và Nhật, anh em lên ngôi rồi giết nhau cũng có nhiều. Vu cho các vị phụ nữ trong thâm cung tội thông dâm cũng nhiều. Bà Tống thị Quyên bị buộc tội thông dâm với con trai rồi bị xử nhận nước đến chết, nghe thật cũng đáng thương. Mình là người thời nay nghe chuyện thấy bất nhẫn. Ngày xưa làm gì có chuyện ‘beyond reasonable doubts” nhất là nếu vua ra lệnh giết.

  3. Wow, chị biết không, học lịch sử VN ngày xưa em không biết nhiều về Hoàng Hậu Tống thị Lan, chỉ biết trong lịch sử đời vua Gia Long thì các giáo sĩ được tự do truyền đạo, nhưng đến triều vua Mình Mang việc cấm đạo rất gay gắt và rất nhiều giáo sĩ Pháp và nhiều người theo đạo đã bị xử trảm hay lăng trì.
    Bà cố rất tài hoa nhưng lại mất sớm thật tiếc.

    Em gởi lời cám ơn anh Tôn Thất Tài đã tham khảo.

Leave a Reply