Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc – Thơ Hoàng Cầm

Feb 1, 2015 (TM)

Tuyết, trăng và bóng đêm hắt vào khung cửa đêm nay,
ngay trên trang sách của bài Về Kinh Bắc.
Tôi bỗng muốn chép xuống đây bài thơ này và về một nhà thơ đã ảnh hưởng mình biết bao.
Tống Mai
Jan 31, 2015

 

Về Kinh Bắc
Hoàng Cầm

mai - hoang cam

Nhịp một
Khấn nguyện
Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng

Đêm Thổ
Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông
Đê mười tám khúc Văn Giang
Chuông Bách Môn đổ xô gò má
Mây thành thổi lửa
Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân
Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ
Thoắt chìm
Gấu đẩy đá Thiên Thai
Đi đâu
Tràng mày xếch vòng cung
Bắn nát chiều mai ráng đỏ
Châu chấu ma vờn cổ yếm xây
Không gặp người quen
Hờ
Ngõ cũ
Đêm xuống
Làm lầu hoang
Trò chuyện gì ai đâu
Mồ tháng giêng mưa sũng
Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu
Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng

Đêm Kim
Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc
Con không cười
Con thoảng nhớ thoảng quên
Hình nhân má điệp tóc mực tàu
Mắt nghiêng dựa liếp
Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu
Gấm Song Cầu khoác lại áo ngày xưa
Da trứng bóc
Phủ bụi tàn nhang
Phía đông kéo cưa xẻ gỗ
Phía tây chầy nện ván thiên
Ông phó may già mười đêm chẳng ngủ
Rũ xô gai biển động tìm kim
Kèn già lam ai tập thổi
Gió mất chồi xuân đay nghiến lũy tre dầy
Năm ba gã trai tập bài lưu thủy
Một trẻ sơ sinh đuổi giọng mèo hoang
Qua miếu mưa phùn
Giặc bên sông đã cắm cờ hạ trại
Mẹ đón con rung gậy mía Đường Trèo

Đêm Mộc
Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng
Khế chua vôi bột lòng tay
Tràng pháo ròng thân cau mới bói
Tênh tênh chở đá Ba Vì
Tiếc gì nhau nữa
Lứa ong bầu châm lửa gót chân

Cói Thanh ép mỏng
Bao giờ lim gãy đá tan
Ngủ lại giấc mơ dang dở
Chũm cau căng nứt mạch tằm

Yếm may ba ngày mẹ vá lại
Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm
Súng lệnh gươm đao rậm rịch
Thua
Lá màn lay
Muỗi ngủ mê

Đêm Thủy
Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt
Gài mảnh gương giàn thiên lý đợi tua rua
Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch
Tượng Quan Âm má ửng bồ quân
Chuông chiều cởi yếm
Chuông sớm đội khăn
Câu kinh tê tê mười ngón tay măng
Mõ đêm hè cuốc lội
Ao mưa dằng rịt lá trường sinh
Gió vào trăm cửa
Gió ra hồng da trinh nữ
Gió vào xanh quan lục
Gió ra vàng thớ mít
Ong bay vai áo tiểu thon mình
Thập điện Diêm vương mở hội
Trong mắt trẻ lên năm

Trưa hè gãy rắc cành hoa đại
Mái hậu cung bồ các tha rơm
Liếu điếu vỗ hoa xoan lả tả
Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân
Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm
Chuối chín cây đổ gục đứt dây bìm

Đêm Hỏa
Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa
Ngón tay di sợi chỉ nâu
Mây nồi rang úp chụp đỉnh đầu
Giun đất lòng thòng mỏ con gà trụi
Võng mắc cành hồng chạc ổi
Kiều khàn
Dứt giọng nho sinh
… “buông mành…
… Con oanh học nói…”
Vợ xách giỏ cua đồng nghén nước
Hoa thui ngọn bí lông tơ
Đại hạn tháng ba
Lá lúa rang châu chấu

Mải dỗ con
Mắt cua nghênh giã cảnh giã người
Càng hy vọng tủa lên trời đợi bão
Chiều cơm suông
Năm ngón tay lằn mông trẻ nhỏ
Trăng lên chém đầu ngọn gió
Cành si bưng chậu máu chát chao
Cuối năm rì rầm tiếng khóc
Chàng ôi ngựa tía võng đào
Chợt mê thét giữa sân
Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng
Máu đổ
Mây đùn
Gió lộng
Sớm mai đi

Nhịp hai 
Kiếp trước
*
Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử
Nắng phù sa
Người thơ kể
Ướm vết chân bãi phù sa sông Đuống
Dựng tre làng Cháy
Sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu

Chuột thành than
Đen xạm dọc sông Hồng
Kẻ cướp run dưới Rạng-đông-thần-thoại
Người thơ kể
Thiên vương chẳng nói
Lúc gật đầu
Vó ngựa đào ao hồ
Liên tiếp mãi Đông Anh
Thiên vương chẳng nói
Lúc nghiêng tai
Cò chở nắng tề phi điệp điệp đằng ngà
Hoa gạo các triền sông
Giải lối Sóc Sơn bay
Người thơ kể
Thiên vương chẳng nói
Chân Mẹ còn đê mê cát mịn
Hội Gióng dong chiêng
Bé em về nằm khoanh lòng mẹ
Nghe nghìn muôn năm sau
Xoa nắn đôi bầu vú lửa
Sông dài
Cát bỏng
Nắng hồng hoang
Gió lông ngỗng
Lông ngỗng trải bờ lau
Sông Cầu xuôi bến Hát
Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn
Chuỗi ngọc trai ai gửi lễ mừng
Vỏ ốc đổ bờ ao sờ sẫm tối
Bè lông ngỗng ngược sông Hồng mưa lũ
Cổ Loa cú rúc chòi canh
Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử
L…i…m…m
Ứ… !
L…i…m…m
Ứ… !

Mất rồi
Mười bảy mười ba
An Dương Vương ôi
Bọt bể bồ hòn
Sương Cầu Lim
Chấp chới lá chè non
Cầu Lim Nội Duệ
The Hà Đông đón kiệu
Bỏ quê Xim
Ếch Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống
Sáo sậu Phù Ninh
Rợp nắng
Về Thăng Long
Đá nghển trông con
Gục đầu sườn núi Dạm
Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền
Đè ngang khói bếp
Bặt mùi khoai nướng
Đầu rau nằm sấp toạc môi
Trống Chờ thúc chín tiếng
Chuông Trõ nện ba hồi
Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo
Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo
Biết lòng chim sáo chim ri
Gái Cầu Lim Nội Duệ đã đi
Khói Yên Thế
Ngựa Ô-truy lao cầu vồng Yên Thế
Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay
Ngựa Ô-truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề
Bờm nhả khói
Đuôi dựng mây
Hí lửa dài
Vó chồm nghiêng soái phủ
Nhe răng cười
Trai Cầu Vồng Yên Thế đã đi

Nhịp ba
Rũ bụi gia phả
*
Bình pha lê nghiêng rượu
liệm đêm tàn
Đèn nhang 1:
Ông già thả gậy
Bắc cầu phao vượt bến
Bạc đầu lên núi thổi cơm chiều
Tay rẽ lá giở trang vàng diễm sử
Áo Hai Bà dăng mắc
Rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương
Gia phả rũ bụi bay mịn chuốt Dó Vân
Cụ tổ mười lăm đời
Cùng ngửa mặt với Trần Bình Trọng
nhận gươm phương bắc chém
Cụ tổ mười đời
Lăn đá Chi Lăng
Chẹn ngõ Đông Quan cứu viện
Gõ ba hồi trống
Tuyên giờ tuyệt mệnh Liễu Thăng
Cụ tổ chín đời
Mở trang Bình Ngô Đại Cáo
Nơi thôn xa ba chén chúc mừng
Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng
Xẵng canh gà thét đuổi đêm đông

Ông tổ năm đời
Cáo quan dưỡng bệnh
Tóc trắng bồng bênh trước án
Câu thơ chểnh mảng gối đầu tay
Tia hoàng hôn xuyên kẽ liếp
Dở khóc dở cười
Đứa cháu đích tôn vừa qua cơn sốt cuối răng
Ngựa cố tri buộc ngoài ngõ trúc
Hũ rượu hoàng hoa
Hịch bốn trấn
Xé trang Luận Ngữ
Lau gươm
Lên đường
Đời cha tiến sĩ năm Nhâm Thân
Kéo quân về cửa khuyết
Hỏi tội nghịch thần
Mắt Chúa đảo thiên
Kéo áo che ngai
Né mũi kiếm vô hình xốc tới
Phanh hầm nhét vội một vầng dương
Cắn nhọn móng tay
Thơ cùm lim khắc máu
Chợt nghe tin giặc dữ
Lấp sông san núi ùa sang
Vùng chặt xích bẻ gông
Phá cửa
Cướp ngựa Hình Tham tri
Phóng lên ải bắc
Dù nghẹn ngào thuốc độc tam ban
Đã ngấm tủy xương từ chén rượu đêm qua

Đèn nhang 2:
Dó lụa lật trang
Sang chữ triện quan tài
Bóng người cô ruột
Mây uốn hàng cau cúi ngó vành môi
Sông trôi xa còn ngoái về
Xem gót chân uyển chuyển
Bao nhiêu núi đồi Kinh Bắc
Dịch sườn thông sang xúm xít
Quanh hàng mi
Nắng đọng hồ trong
Một sớm đi làm vương hậu
Cười rũ cỏ hoa
Rè tiếng trống chấp đòn khênh
Xà tích dấu đưa em
Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc
Nhìn mây về ngọn cau
Mái rạ thiu thiu
Đi
Bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy
Níu cuộng lá vàng qua trận bao

Phân kim hạ kiệu
Khói ly đoài thoai thoải khúc hành vân
Mấy chục nguyên tiêu
Thời trân thưa thớt
Cơn trái nắng kén gì
Đúng lúc quả đào rơi
Vua băng hà
Đời hậu tắt sao băng
Sợi tóc trắng quấn vòng Khiêm lăng
Chẳng dứt
Rêu lầy vầng trán thuở nào xưa cấy lúa
Nghểnh xem diều tầng xanh đảo cánh
Đêm ngủ gối đầu cẩm thạch
Hồn ma đế bá cũng lang thang
Đói khát tình thương
Đá Quảng Nam quen lệ nghìn năm lấp sống
Đêm doang tay
Mời vương hậu
Ngủ chung giường
Chợt nghe tin giặc dữ tràn sang
Bàn tay quấn tóc khô
Che mặt
Về quê
Chết bên cây ngâu nhòm bể nước mưa đầy

Nhịp bốn
Rồi cùng đi tất cả

Ngựa 1:
Trấn Kinh Bắc vua nuôi đàn lính ngựa
Trăm trận đông đoài chập vút bì tiên
Cắt thịt chia da
Nhai cỏ úa lối mòn đường quê chát đắng
Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ
Ngửi hơi chồng quanh quất cửa đông nam
Dù gục khóc dưới chân thành
Đã mất giải khăn đào hứng lệ
Người đổi kiếp ra mô đất xám
Đắp thêm cho vững mái lầu hoa
Chiều nổi cung đàn phỉ thúy
Thong dong
Trận mạc võng lưng Phiêu-kỵ-tướng-quân
Phóng giữa Trường Sơn lớp lớp
San bằng đồi núi lô nhô
Vó sắt lún ba năm cỏ bồng chẳng mọc
Tiếng hí dài
Ba lần triều đại đổi ngôi
Khoét thủng sáu lần nhung phục
Đập rập tám lọng vàng đô đốc
Cha truyền con nối
Đã xơ lơ

Bên cầu lếch thếch trẻ mồ côi
Nhớ sữa mẹ gặp con ngựa út
Bờm lông còn ướt
Đã vểnh tai nghe động trống doanh lâu
Nếp nếp áo chầu
Ngã rạp
Chiến thư
Dùng dắng
Tử sinh
Ai gặp lúc tuổi măng háu đá
Óc ngu phu giám mã
Chạm yên
Đau rức xương hông
Quằm gót
Thốc ngang sườn quật thây tổng quản
Hỏng rồi
Chiến trường không dụng
Đeo thẻ bài nhà Chúa
Ngẩn ngơ gặm cỏ
Quanh quanh cửa bắc cửa đông
Nhìn tít mù xa khanh tướng
Cờ bay bụi lốc
Nghe tin về lái ngựa quận công
Xiêm quận chúa tung rung kỳ ngộ
Tiếng hí khải hoàn chìm lịm
Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn

Xương vụn kéo lên gò đống
Cháu bốn đời vỗ mả áp tai
Nghe tràng đạc rộn hoang vu
Còn thoảng khét mồ hôi
Ngày huyết chiến năm Thân
Những Việp-Quận-công Bằng-lĩnh-hầu
Đổ xuống bủng beo da thị rụng

Ngựa 2
Có một thời
Tin lửa đến giục thôn vàng ngái ngủ
Giặc tràn sang cỏ rạp ải quan rồi
Đàn lính ngựa vua nuôi
Bỗng lừ đôi mắt mỏi
Phi dài vệt khói
Cánh dăng dăng quan lộ
Áo nẹp vàng lên chín ngọn Hùng Sơn
Đường nắng bay từng đám hoả hoàng
San sát rừng gươm
Gia Bình Bạch Hạc
Tràn lên thốc ngược cờ đốc đồng Kinh Bắc
Trước mặt cào cào rộn cánh
Tốc xiêm y trăm sắc cung tần
Trên lưng nắng hạn xém yên cương
Dưới bụng dầm dề cỏ rướn mình
Uống nước mưa thổ hoàng bách chiến
Giặc cuồng vắt chân tháo chạy
Đầu lâu lăn lóc vó
Vụn xương hàm cắm mốc biên thùy
Tít tắp
Từ Tiên Yên Hà Cối
Đến Hà Giang dựng Cổng Giời xanh
Cũng từ thuở ấy
Cô gái quê thả tấm khăn điều
Bay nối đường tre liền ngọn thác
Bạc phau đổ xuống tự vòm mây
Mắt ướt môi se không nức nở
Răng đen rưng rức
Nghiến oán thù tím ngắt
Nắng Phong Châu
Cũng từ thuở ấy
Lính – ngựa vua nuôi gọi lính – người
Hội vật
Trống lớn Giảng Võ đường
Đội bổng vòm trời cao vót
Gió thượng du dội lại
Mưa trung du thốc sang
Bão hạ du dồn vang
Ba hồi chiêng lảo đảo các toà lầu
Cong mái đỏ quanh thành
Kỳ xí đêm qua ủ gió
Sớm nay thả hết về nam
Săn đàn mây bò mộng ngổn ngang
Loa khua nắng thét mời đô lực sĩ
Hiệp trấn rón hia lên đài khảo sát
Tuốt gươm trần trăm vệ sĩ
Hai hàng tăm tắp võ hoàng môn
Lệ ba năm nức lòng dòng võ tướng
Vua kén người giỏi tiên phong
Vật núi núi lăn
Ngáng sông sông gãy
Gái thường dân Kinh Bắc
Tìm ai đây giỏi phận làm chồng
Hai tay căng sợi chỉ
Quỳ ba đêm không mảy động đường tơ
Các ngả đường bụi đùn lốc nổi
Thác người đổ qua cửa ngọ
Cờ xua hết mây đi
Toà biếc lắng xem
Trống vẫn thúc
Sạt sườn Tam Đảo đổ nghiêng
Loa vẫn rải
Núi đồi trùng trùng đi bốn hướng
Chiêng lê thê sông Nhị
Dăng dài bãi mía bờ khoai đi
Một khắc cờ im gió đợi
Trai đô ùn đọng ngã tư thành
Ai từng buôn ngược bán xuôi
Chiều hoang rừng xế gặp hùm
Liều thân cứu mạng
Tránh hổ vồ học được miếng lèo đuôi
Ai xuống bể mò ngọc trai
Tặng người yêu dấu
Né đuôi cá mập
Bỗng nên tài dụng phép thúc sườn
Ai lên núi chặt ngà voi tiến cống
Giỏi khoa vặn chệch hàm răng
Lại kìa ai thuở bé thích trèo cây
Giỏi môn vặn cổ
Ai vượt thác tìm vợ xưa tu chùa Yên Tử
Tài ngậm hơi phồng bọng ễnh ương
Ai vào núi ba ngày ăn một hạt vừng khô
Chân nhái bén ngáng khoeo mất cựa

Lại kìa ai quen trộm gà bà thím
Miếng nấn đùi trùng tuột các đường gân
Lại có ai từng quen tranh nhan đoạt sắc
Tài dùng phép “Chiết yêu điểm huyệt”
Cò bợ tháng tư mổ rút ruột voi già
Loa càng dóng dả
Võ nghệ mười phương
Hồi hộp bắc đồng cân
Đây Tổng Dong Võ Giàng vào trước nhất
Nhiễu xanh vắt hông
Cử vạc ba trăm cân
Nước đầy
Không sóng sánh
Rồi Bá Ngạc Tiên Du
Tư Đang Yên Dũng
Bóp tay vỡ toác đốt tre ngà
Nghiêng mình thi lễ
Mắt trầm tư ngó vội khảo đài
Mấy giải hồng y phơ phất phấn vua bay
Kia Bảy Kình khét tiếng Yên Phong
Gạt dóng tre ngà
Cầm tấm mía nhai ròn
Thổi bã ngất trời bụi trắng

Đến Ba Ngư Siêu Loại
Trề môi khinh vạc lớn
Đứng tấn đại bàng
Lay voi đá cửa dinh
Nhấc bổng
Diễu hai vòng bãi rộng
Phong ba động biển reo hò
Gái nhà quan bố nuông
Cho giữ dịp
Bỗng để rơi dùi trống
Nín hơi nghe rần rật
Bão liên hồi
Trong búp lá măng tơ
Hồi cồng buông trấn lệnh
Từng đôi vào
Sư tử vờn quanh
Lên điệu “Bạch hầu đoạt trái”
Sang điệu “Hồng hạc tề phi”
Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu
Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt
Nhiều nho sĩ bút gài tai nghển ngó
Lòng run nghiêng thời vận Trình Chu
Thùng thùng trống chuyển nhịp tơi bời
Nhiễu đỏ bên trái lên
Nhiễu xanh bên phải xuống
Nhoè bụi cuốn
Cột đồng dựng
Núi đá mọc
Ngón chân cày đất ba gang
Vạt cỏ đuôi gà bật rễ
Đất võ đài nhô lên lõm xuống
Chòng chành vạn chiếc mắt thuyền
Cờ xoay hướng chỉ lên tây bắc
Vảy tê tê gạt gió
Xô về xem cuộc giao phong
Đã vào trận léo tay tư
Chùm trống rụng rã rời từng quả mõm
Ối thôi
Bá Ngạc cắn môi vít gót
Bảy Kình nhắm mắt xuống bò
Ba Ngư bạnh quai hàm chơi miếng hiểm
Tổng Dong nghiến răng ken két
Giật ngang mạng mỡ
Tử sinh là lúc này đây
Phẩm tước tay vua khua lủng lẳng
Cồng chiêng thoi thóp
Dựng giăng chưa dứt miếng kỳ phùng
Đốt hồng lạp hai hàng cột cháy
Ánh lửa loáng lưng gò cật thắt
Mồ hôi người máu nến
Rụng song song
Rạng đông
Người toàn thắng bước ra
Ức vạn người xem khiếp sợ
Cuộc tàn tản mác cát lòng sông
Đô nhất là ai
Quê vùng đâu đó
Vươn tay chạm giời
Tóc hất sao mai
Quỳ xuống
Vọng về cửa khuyết
Lạy hai lạy
Lưng vàng rạp cỏ
Nàng chấm thi khép mắt ngoảnh đi
Kén được một người
Nụ cười chếch đôi mắt lạ
Vồn vã đến
Thong dong thua
Rồi lửng lơ đi
Vua kén đủ mười hai đô uý
Triệu về kinh ban yến năm đêm
Giọt rượu hồng hoen bố tử
Nâng ngự tửu xuống án rải thây trăm họ
Một lời khảng khái tung hô

Mai sớm kéo quân đi
Nghìn dặm lấn thành xa
Khúc quân thiều còn múa lượn
Vành tai sương cóng
Chiều tím bặt sa trường màu giun chết
Thân mười thước đổ ngang rụng ngửa
Phơi mồi quạ xúm đen ngòm
Bắp thịt đường gân ngày thí võ hôm xưa
Thoắt đã bầy nhầy phân ngựa
Đêm vàng Kinh Bắc
Thuyền ngự đè sen chồm sóng rượu
Phi tần dâng hoa ngoài Thuỷ tinh cung
Lính thú
Lá cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ
Mười lần khấn gửi nước về xuôi
Lính thú đèo Mây
Vươn tay chém nứa
Xọc ngang sườn
Gục bên khe Vân tuyền nước đọng
Rừng khô thoảng động gót chân người
Quẩy gạo thăm chồng đồn thú đèo Mây

Cô hàng xóm cũ ở riêng
Lạt cánh sen buộc nem lá chuối
cũng gửi quà xưa hội tháng giêng
Góc tuần trăng chưa vợi mặt sông
Đòn gánh đã theo củi giạt
Thúng Nha Kiều nghe nghé mắt xuôi
Cụm tóc lá sung lạt mở
Bến về nghe sợi đập làng xanh
Thôn cũ
Đầu sân guốc chiếc nằm nghiêng
Cung quăng đo thân cau
Vại nước lưng chừng
Đuôi nắng quệt ngang cành ớt
Lưng trâu mười tuổi ngủ đồng xa

Nhịp bốn
Rồi cùng đi tất cả
*
Những cuộc dọn nhà
Tuần du trang sử rách

Trai đời Trần
Các con trai đi cả
Nợ nước xóa ơn vua
Một đứa cắn đứt dây buồm
Thuyền giặc đang xô bờ Hàm Tử
Một đứa theo lốt chân hươu chạy
xục bóng thù gay nát rừng Tuyên
Một đứa cưỡi cá voi quá đảo Cô Tô
Lùng mạch sóng đoạt lương
Nghìn hộc thóc
Một đứa ngâm thơ đàn gảy Vũ Hầu
Hổ báo cúp đuôi lè lưỡi máu
Lê thê từng vệt đến Yên Kinh
Riêng một đứa gánh đôi bồ xiêm áo
Tìm ẩn nẻo Chí Linh
Gặp mũi tên lạc gió
Chết trong xó núi
Vợ không kịp chôn chồng
Lại lõng thõng đôi bồ chạy giạt
Còn đứa cuối cùng mười bốn tuổi
Gói rau xam rau má
Ruộng nhà chấm muối
Côn Võ Tòng thẳng tới miệng beo gầm
Gái Hậu Lê
Dây lạc tiên vắt qua tường đổ
Đuôi cằn nắng xế ngựa lưu ly
Sợi tóc ba nghìn dặm
Ôi giải xiêm đào ngày tuyển lựa hoàng phi
Một nắm cơm khô rạn túi gương tàu
dùng dắng bẻ đôi chiều nắng quái
Sét đánh phía kinh kỳ
Biến mất Vọng Tiên lâu
Qua núi Tam Tầng nghe tiếng hát
Cô gái điên
Ôm xác chồng
Lội đồng chiêm
Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa
Ném xuống cầu em cởi áo chiều xưa

Hoàng phi bện dây đay chằng lụa thủng
Từng đêm vuốt bụng
Nổi vết bào thai
Khóc âm y trước lúc ra đời
Đứa trẻ
Mẹ đắp vai con mảnh chăn rách
Bụi dứa dại đầu bờ rẽ lối
Thôi con về ở với cha
Con về
Giấu giếm những bàn tay
Nâng vú
So đũa
Lau mắt
Phơi dây áo thềm sân
Bố chặt cây sung cây khế
Cắm mía mía không lên
Nắng bừng lùm ớt chỉ thiên
Ai trồng mà mọc
Đến một ngày nhà đông khách
Khen con ngoan
(… con ngoan !)
Kiến mở cờ trên mẹt đường phên
Gấc đỏ mặt ngoài vườn
Gặt non nếp dự
Con trẻ tung tăng nhà đám
Nấp chân cây rơm
Dùi xe điếu
Trợn mắt
Thổi căng tròn bong bóng lợn
Cười nô ngoài ngõ
Nhận chị nhận em
Nhận thêm chú bác ông bà
Những người đâu ta
(…đâu xa…)
Thoáng đã chiều hôm thảng thốt
Lạnh so

Nhịp năm
Còn em
Cỏ Bồng thi phải cheo leo mỏm đá

Cây Tam cúc
Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Chị gọi đôi cây
trầu cay má đỏ
kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa Chị đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì

Đứa được
chinh chuyền xủng xoẻng
Đứa thua
đáo gỡ ngoài thềm
Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ
đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em

Năm sau giặc giã
Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
thả tịnh vàng cưới Chị
võng mây trôi
Em đứng nhìn theo Em gọi đôi

Lá Diêu bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ

Chị bảo
Đứa nào tìm được lá Diêu bông
từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
đâu phải lá Diêu bông

Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Chị cười
xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời…
…ới Diêu bông…!

Quả vườn ổi
Nằm trên bãi cát thư tâm
Sông nước sinh thuyền Em đẩy tới
Có gió có buồm có dòng có lái
Trách gì ai xô giạt đến bờ hoang

Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa
Đi…
Ngày tháng lụi tìm không thấy
Giải yếm lòng chai mải phất cờ

Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
– Xin Chị một quả chín
– Quả chín quá tầm tay
– Xin Chị một quả ương
– Quả ương chim khoét thủng

Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng

Cỏ Bồng thi
Chị đưa Em đến bến này
cheo leo mỏm đá

Trước vực
Sau khe
Thòng lọng tơ gì quấn gót
Tua khăn buông còn buộc búp hoa lan

Ù ù gió thổi
Em vọng ai đâu mà hoá đá

Không trói mà không đi
không canh gà
không thu không
Mắt không mở
đừng khép
Kìa dây muống dại kín Em rồi

Lắc đầu hoa tím rụng
ngó rừng xanh Em hỏi ngọn nguồn
Biết rồi
Thôi
nghe hoa tím hát

Ngày mười bảy tuổi
chót chơi đố cỏ Bồng thi
Cỏ Bồng thi phải cheo leo mỏm đá

Ù ù gió thổi
Không canh gà
Không thu không

Nước sông Thương
Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương
Mắt tròn cối xay
có bao giờ ngủ trước sao Mai

Ngày Chị bảo Em quên
Tranh tố nữ long hồ gián nhấm
mất chân đi
má đội tổ tò vò
Cuốn chiếu xa rồi
thơ thẩn vách chiêm bao

Ngày Chị bảo Em quên
Con bạc má lại về cành chanh
thương Em hay giận Em chả biết

Ngày Chị bảo Em quên
Tắm sông Thương không mát
Lên ngọn Kỳ Cùng té nước trao duyên
không mát
Về đuôi mắt xưa treo suối Cam Lồ
không mát
Ngày Chị bảo Em quên
Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ

Tha cho Em
Tha Em
“Sông Thương nước chảy đôi dòng…”

Hết năm phương
Em nhìn năm hướng
Là mười phương
Chị biết CÒN EM

Tắm đêm
Em gánh gạo về dinh phú hộ
Nứt vai thành sẹo lá lan đao
Em chở nứa sang bờ duyên phận
Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh
Tuổi đã rách vá gì cho kịp
Da mỡ đông tuốt sẹo ngang thân
Tung toé dội gầu trăng nước giếng
Mát lùa kẽ tóc
Còn bủn rủn sẹo ngang sẹo dọc
Vắt áo nghe thầm tiếng vải kêu
Dòng dây vục m•i đêm hồ tinh
Ấp vú mình trần con dế trũi
Cành tre trải áo nép thân hình
Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi
Ai rình Em
Ai ngó Em
Chợt rùng mình níu đêm trần trụi
Gai đâm xiên mười ngón ân tình

Đếm sao
Mài cạnh mảnh gương mới vỡ
Đến bao giờ tròn
Đừng cứa tay mình câu hát ơi
Một tiếng buông khoan giữa nhịp
Vì chơi với điệu lúc tàn trăng
Ai ngờ để lòng Em muối đổ
Đông đoài đuổi mãi sao Hôm
Một thoáng gật đầu
Giữa trời gãy cánh
Nửa mắt nhìn chênh
Giếng cạn mùa mưa
Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
………………………
Đếm chưa xong
Em chớ
Gật đầu
Câu hát theo người leo ngọn thác
Đếm nắng
Sơn ca chắt nắng
Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng

Tiếng gì dưới ấy
có phải tiếng vang
Tìm tiếng vang mình
Chui vào cửa hẹp
Cửa khép
Trách gì ai sáo trúc gây mê
Trách gì ai cặm cụi vót tre
Đan lồng vàng tía
Ngỡ trời mây trăm sắc ước ao
Chị bỏ Em đi
Cánh nhẹ trên sông
Chiếc lá mơ rừng
Hát lừng ngọn gió
Khóc đỏ chiều quê
Nhớ về mắt Em
Ới thương là thương
Động gót mưa xuân
Cưới mặt trời hè
Ới thương là thương
Gà con nhớ mẹ
Cỏ vàng rung chân
Ới thương là thương

Đếm giờ
May cho Em tấm áo sồi non
Làng không mở hội
Cất cho Em hương quế nước trầm
Thẫm đường má răn
Chim vàng phải tên dưới bụng
Giận mình bay quá cao
Bướm ngũ sắc rã rời tay trẻ xé
Trách mình quá lộng nắng tàn xuân
Trốn tiếng Chị cười
Nấp mắt Em trông
Trèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo
Mát chân rời rợi
Đừng ví thân Em hạt gạo tám xoan
Đừng vẽ hình Em hoa đào hoa lý
Đừng hát tình Em sóng vỗ mưa về
Đừng tạc mặt Em lệch mái thùy cung
Đợi sau khi Em qua đời
Sẻ đồng thành phượng núi
Cây đa đường xứ
Lớn lên ai hay
Vẫn cơn gió cũ
Bao nhiêu chiều vụn đá
Mắt nắng thay mùa mở lộc non

Theo đuổi
Em ơi thử đếm mấy giêng hai
Đêm hội Lim về
Đê quai rảo bước
Đuổi tà lụa nhạt
Ánh giăng đầm thấm đường sương
Ấy bởi thương Em
Vườn khô bỏ ngỏ
Gió vào ra bưởi trụi hồng thui
Ấy bởi thương Em
Mái nhà um cỏ
Chim vào ra vách đứng cột ngồi
Em về đồng chiêm đất rạn chân chim
Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè
Hồ nghe đêm hội ới a
Lại xót mắt Em mi trường khép bóng
Lòng tay êm mát rừng tơ xa
Lại xót tay Em đêm trường ru võng
Rừng chân mây chưa động sấm quê nhà
Chân Em dài đi không biết mỏi
Má hồng Em lại nổi
Đồng mùa nước lụt mông mênh
Lưng thon thon cắm sào Em đợi
Đào giếng sâu rồi
Đừng lấp vội ngày xanh
Lý lý ơi khát khô cháy giọng
Tình tình ơi chớ động mành thưa
Chìa vôi quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo tắm bao giờ…
…hở Em

Nhịp sáu
Điểm trang
*
Những Hội hè Kinh Bắc
Những hội hè Kinh Bắc
Có thi nhau giật giải pháo toàn hồng
Thi sợi bún

Khi quất
Quấn năm vòng cột đình
Không đứt
Giã bột mười đêm
Pháo nổ không nâng hai hàng mi mọng
Mai về vỡ vại long chầy
Đứt quãng hoa niên
Mai về lại dựng giường dựng chiếu
Lúc dựng giăng
Tóc quấn cột nhà
Con trăn đen thoi thóp
Ơi đêm Đông Hồ
Nát nhầu thân tố nữ
Sợi bún ngà vá lại dung nhan

Thi ăn mía thổi cơm
Bụng đâu chứa hết những bãi sông xanh ngắt
Lửa đâu xém cánh tay bột nặn
Cháy phù sa ngọt sắc Yên Viên
Cơm vừa chín tới
Má xuân hồng
Lồng khói tím
Lịm sang thu
Bãi mía sông Cầu reo đáy bát
Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát
Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa
Thi đánh đu
Luồn tay ôm say
Giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Đùi chảy búp dài thon nhún vội
Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh
Thi hát đúm
Chiếc pháo xì loay hoay
Thềm gạch vỡ Bát Tràng
Chuỗi pháo đùng thèm bay
Bùng giấy đỏ liều thân
Lụa xé đôi tay
Bến nhức gan tằm
Người bỏ chồng vào thi hát đúm
Chệnh choạng lối mưa
Nón quai thao úp bụng
Người chồng bỏ cũng thi hát đúm
Gót chân bùn ngõ tối
Tuổi lội
Tầy đường mới sống trâu
Trăng khuya các bờ sông
Chụm sao mai soi hai mái đầu
Thi dệt vải
Lòng Em phau phau
Tìm đâu mấu sợi
Một tấm trường giang
Đèn rọi võ vàng
Thoi chim khách đếm năm đi vút
Vải gột hồ hai má gột môi hoang
Thi thêu gấm
Từ thuở bé biết đâu
Chim uyên chim thúy
Kim se dây mà rẽ thúy chia uyên
Một mái rạ vàng ấm Châu Long Dương Lễ
Ngơ ngẩn đường khâu áo lạnh Lưu Bình
Ai luồn kim giải áo dở dang mơ
Chàng Lưu ứa nước mắt
Bước ra thềm hong mưa
Hội chen Nga Hoàng
Chen Nga Hoàng
Len chèn nguyệt tận
Phụt nửa đêm đèn nến lặn
Ba hồi trống giãi dầm dề
Lim dim bao dong ba nghìn mắt Phật
Tóc tung tình bờ xôi ruộng mật
Quanh co toả bốn hướng đình
Từng ngôi sao mắt người lung linh
Ai gọi… im lìm
Í ới… sao chìm
Đôi đôi ú tim… tìm
Oà ập… cánh chim… e ấp
Hỗn mang mê vô cùng
Địa đàng say tới tấp
Không giờ không
Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng
Nhẩn nha thôi
Ôi dùi nhẹ buông tênh… tang vờ câm
Ai nện xin thương ngầm
Gõ hờ đôi ba tiếng cuối buồn vang âm
Vì tay ải tay ai
Chưa nguôi tê mê thầm
Chợt bừng nghìn cây nến đỏ
Như sững sờ nghìn tội
Biết lội về đâu
Cho qua cơn thịnh nộ sầu
Cụ Tiên chỉ già tuổi tình cạn kiệt
Tóc héo bưng đầu
Lùi lũi tiếc thời xa
Khua gậy cùn rập mấy thời sau
Tơ xanh ngây ngây đêm sông Cầu
Em anh giờ lẩn trốn bụi bờ đâu
Thì trói cả đôi
Xin trói cả đời
Cột lim ư gãy rồi
Giường nhung ừ sóng đôi
Sân đình
Lại Thị Mầu í a tung tình
Rung rinh
Chờ

Hội Gióng
Mùng Tám tháng Tư
Không về hội Gióng
cũng hư mất đời
(Ca dao)
Trăm đôi gái trai anh tú
Ngựa lồng bãi rộng
Gươm thần phun lửa đốt môi
Chú bé lên ba là tướng võ nhà Giời
Ai ngờ đã bốn nghìn năm manh mối
Xuân đến lụa the
Cầm gậy tre đi se duyên cô Tấm ông Hoàng
Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu Tây
Hội Long Khám
Hội Long Khám đêm sao chi chít
Bồ đề mở lá thả ni cô
Thiện nam vin khói đi quanh chùa
Mơ Từ Thức
Gặp ngay quan huyện khác

Mẫu đơn một nhành rơi
Ngọc lan mười búp chắp
Nến tắt sao không tắt
Giải Ngân hà giải chiếu nâng hoa
Hội vãn rồi quan huyện về nhà
Quan-huyện-khác lại làm Từ Thức
Ni cô ơi
Hội Vân Hà
Lợn ba trăm cân
Kềnh xuân lún ngõ
Khói bếp lun phun mưa
Mép chàng trai lún phún đương thì
Tết Vân Hà làng mở hội thi
Núc ních từng đôi chật đường nghẽn lối
Cỗ ba tầng
Giò lụa nổi
Giò mỡ chìm
Nem bối rối
Lá sung bay rụng đầy nong
Vại bỗng ngất ngư cười cải mả
Bát bỗng lim dim
Tìm mắt gái muộn chồng
Sân một sào xôn xao
Sồi lụa thưởng
Mười lợn thi đi chật cổng đình cong
Đêm phường chèo trống giục
Vùi lấp nồi niêu
Hồi tiếu cùng eng éc
Khúc giáo đầu bi tráng lợn nhà kêu
Ba ngày tiếng dao phay liếc nhanh thành vại
Ba đêm chim lợn toác sương gieo
Chai đại lăn kềnh giữa chiếu
Chai bố chéo khoeo
Vật vờ góc ban thờ
Chai con gậm giường rụt cổ
Tuý luý mềm soải tóc khóc ngu ngơ
Hội tàn men
quẩn quanh nghiêng ngửa
Giật yếm đào túm vội đôi bầu
Bỗng đốp chát mắt đom đóm nổ
Mịt mù hơi rượu miếu cô Mau.

Hội đền tám Vua triều Lý
Hội đền tám-Vua-triều-Lý
Còn đau thớ gỗ phượng rồng
Chen chúc khoảng trời thương nhớ
Tạnh thời gian
Tám tượng ngồi mê tà khói mỏng
Để thạch sùng vào bụng rỗng
Chép miệng vàng son ngút khói tan
Đôi lính Chiêm Thành canh cửa Việt
Quê hương quê hương xa không về
Tù binh gửi máu vào tay chạm
Đứng cửa còn trông thấy đất Chàm
Bát đế ngoái nhìn trang sử ố
Nghìn năm sao chẳng tuyệt nòi tham
Giá như tế lễ uy linh thế
Được tái sinh nhiều đấng minh quân
Hẳn Công Uẩn đã tâu Thượng đế
Treo trống hồn vua lắng tiếng dân
Hỡi ơi Chiêu Thánh sao không nói
Người ta lo dựng nghiệp lâu dài
Ai lo việc cưới chồng công chúa mồ côi
Ví như không có Trần Thủ Độ
Mắt dại Vua Bà biết chọn ai
Quân cờ chí chát đêm Kinh Bắc
Mấy ngón tay tính nước vào ra
Vân vê nhẵn nhụi cạnh ngà
Tròn lăn cung cấm trẻ con chơi

Nhịp bảy
Rồi lại đi
*
Bước sắp qua cầu nghẹn tiếng

Luân hồi
Con đấy ư
Con đã về Kinh Bắc
Những cỏ Bồng Thi
Với dế đầu si
Những lá Diêu Bông
Với đôi xe hồng
Luân lưu thụ thai qua chín đời
Đằng đẵng
Đến khi con lọt lòng
Cây đu đủ sau nhà vừa bấm ngọn
Đội mũ niêu đen
Đi trong đêm mưa dầm
Mẹ đau trở dạ
Sinh con ra
Tiếng tù và xé canh ba
Báo hiệu cơn giông nín lặng
Trống liên hồi ra đi
Ngăn trận bão bao la
Trong giọt lệ cuối hàng mi
Con đấy ư
Mười ngày không khóc
Mười thày lang dờ dẫm
Ven giường ẩm ướt
Mười đêm
Tiếng trống chèo vuốt ngực Châu Long
Bước “sắp qua cầu” nghẹn tiếng
Đợi mùa
Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ
Dẫy tre xa giấu biệt giải khăn điều
Khi gậy nắng kẻ ăn mày đã quăng sau núi
Hàng tre nhả yếm
Trả mẹ về
Lều dột mưa đêm
Thì Chị đi mấy lối chân chim
Để Mẹ về bao phương bèo nổi
Riêng Em nằm trơ đợi mai tu hú gọi
Như không có Mẹ từ năm biết gọi gà
Chiêm chiếp xó nhà mưa mọt
Xanh gì chỏm tóc lên ba
Khi cọc cầu ao dứ mắt chuồn chuồn
Buồn ngủ rã rời cánh mỏng
Em đi mãi những đường làng ngơ ngắt
Nhặt lá đa đan mũ Chiêu Quân
Hát vẩn vơ lời sẩm chợ
Gậy mù ngửi hơi đường lạ
Bóng cây rợp mát lưng gù
Chiều lá dứa tít mù chong chóng
Gió mát này Mẹ quạt
Từ chênh chếch nẻo tàn trăng
Có cô láng giềng trái đào vắt vẻo
Hỏi đằng ấy đi đâu
Em lên núi xa hái cỏ thiên đồng
Cài tóc Chị sênh tiền gõ nhịp
Đánh bồng trên mái đình cong
Em bước vào đình
Ôm cột mấy người ôm
Em rẽ sang chùa
Lay chân hộ pháp
Sau chùa tát đêm một chạp
Gầu giai ai vớt Chị ơi
Loà loà thân trăng
Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
Cắm bốn que tăm
Khênh nhị hỉ đẫy lưng lợn béo
Phần Mẹ khúc đuôi tròn
Phần Chị nửa mình thon
Phần Em hai chân ngơ ngác
Tăm cắm chật bình hương
Em xuýt xoa tập khấn
Chắp tay nhìn nghẽn nghìn phương

Có hôm Em lần xuống bếp
Cậy cháy sành vỡ toác trôn niêu
Một con mèo mướp ruỗi chân chiều
Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng
Tưởng như Mẹ về
Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa
Tưởng như Chị về
Tóc óng đêm xưa giờ tua túa rễ tre
Bao giờ Chị về
tóc phủ vai Em chiều hương nhu
Bao giờ Mẹ về
buộc yếm đào phai vỗ hát ru
Khấn thầm như gặp Chị
mắt nứa cứa tay Em
vẫy đón đầu làng
Khấn thầm như Mẹ lỡ đò ngang
miệng hé hạt na nhoà bến vắng
cổ tay tròn đẫn mía gie

Không
Bầu Mẹ không tròn
Bưởi Chị chưa hoa
Đã hết năm tu hú gọi rừng già
Đã sang mùa
Tu hú ngủ rừng xa

1- Lá
Có nét buồn khôi nguyên
Chìm sâu vào đằng đẵng
Có tiếng ca ưu phiền
Chìm sâu vào lẳng lặng
Và dai dẳng em ơi
Là cơn say khát lá
Cứ thon mềm xanh lả
Trong men quê bồi hồi

2- Ngõ
Sao không thể khép cửa buồng thương nhớ
Còn phong phanh manh áo
Dắt về những ngõ làng xưa
Sao không quên chiều đổ mưa
Con rô rạch ngược
Nướng cong mùa thơ
Cơm nghèo thuở trước
A bê nghé ơi
Mưa Thuận Thành
Nhớ mưa Thuận Thành
Long lanh mắt ướt
Là mưa ái phi
Tơ tằm óng chuốt
Ngón tay trắng nuột
Nâng bồng Thiên Thai
Mưa chạm ngõ ngoài
Chùm cau tóc xoã
Miệng cười kẽ lá
Mưa nhoà gương soi
Phủ Chúa mưa lơi
Cung Vua mưa chơi
Lên ngôi hoàng hậu
Cứ mưa Thuận Thành
Hạt mưa chưa đậu
Vai trần ỷ Lan
Mưa còn khép nép
Nhẹ rung tơ đàn
Lách qua cửa hẹp
Mưa càng chứa chan
Ngoài bến Luy Lâu
Tóc mưa nghiêng đầu
Vành khăn lỏng lẻo
Hạt mưa chèo bẻo
Nhạt nắng xiên khoai
Hạt mưa hoa nhài
Tàn đêm kỹ nữ
Hạt mưa sành sứ
Vỡ gạch Bát Tràng
Hai mảnh đa mang
Chiều khô lá ngải
Mưa gái thương chồng
Ướt đằm nắng quái
Sang đò cạn sông
Mưa chuông chùa lặn
Về bến trai tơ
Chùa Dâu ni cô
Sao còn thẩn thơ
Sao còn ngơ ngẩn
Không về kinh đô
Ơi đêm đợi chờ
Mưa ngồi cổng vắng
Mưa nằm lẳng lặng
Hỏi gì xin thưa
Nhớ lụa mưa lùa
Sồi non yếm tơ
…………………..
Thuận Thành đang mưa…
……………………
Nhịp cuối
Về với ta
*
Ngủ say rồi đôi cá đòng đong
Về với ta
Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
Đi mãi tìm sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
Gặm cỏ mưa phùn
Dóng dả gọi về đồng sương
Đôi ba người lận đận
Đêm nay mẹ chẳng về chuồng
Ta con chào mào khát nước
Về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm
Cây ổi giơ xương
Chống đỡ mùa đông xập về
Đánh úp
Ô này tám đỏ ra hoa
Ta con chim cu
Về gù dặng tre
Đưa nắng ấu thơ
Về sân đất trắng
Đưa mây lành những phương trời lạ
Về tụ nóc cây rơm
Ta ru em
Lớn lên em đừng tìm mẹ
Phía cơn mưa

Ta con phù du ao trời chật chội
Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
Vừa rụng chiều nay
Dềnh mặt nước hương sen
Ta soi
Chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi
Đôi cá đòng đong

Xong cuộc tuần du
*
Tuần du chưa vợi khối ân tình

Vĩ thanh
*
Thai nghén quê xưa
Về kinh bắc lọt lòng
Qua tám nhịp tuần du dạ khúc

Đó là vào năm 1959. Vụ Nhân Văn – Giai phẩm đã qua đi như một trận gió mạnh. Sau, dĩ nhiên có một vài cây đổ, lá rụng đầy đường, có những túp nhà tốc mái, có những bức tường xiêu vẹo. Xong, trời lại xanh, đường phố lại rộn rịp nếp sống thường ngày. Tôi, lẽ đương nhiên phải chịu kỷ luật (trên văn bản, giấy trắng mực đen do ông Nguyễn Đình Thi, tổng thư ký Hội Nhà văn ký : Khai trừ khỏi ban chấp hành Hội. Thời hạn 1 năm không được ấn hành tác phẩm – lưu lại Hội để giáo dục. Và cũng chỉ có thế, còn đời sống vật chất cũng chỉ sa sút có 50%. Vẫn có lương nhỏ nhoi hàng tháng (lương chính bị cắt tới 65%), lao động chân tay bắt buộc trong 3 năm, sau thì được tự giác tìm một nơi nào đấy lao động chân tay có thêm tiền bồi dưỡng. Cũng vui, và chính cái việc tôi sinh hoạt, sống ba cùng với nông dân, công nhân đã giúp tôi hiểu thêm về những số phận người.

Phải nói thật một điều, thường người ta khó tin, là hồi đó tôi không mang trong lòng – dẫu chỉ một ly – nỗi oán hận, nỗi buồn phiền, hoặc trách móc hờn giận gì ai. Đôi lúc, chỉ nghĩ về chính số phận mình, có chút cay đắng, có xót xa. Nhưng vì “đã mang lấy nghiệp vào thân” như Nguyễn Du nói, cái nghiệp thơ đầy đau khổ, oan trái, nhưng cũng nhiều hào quang toả ra từ tâm linh và từ những câu chữ kỳ diệu đã đem đến cho mình không ít giờ phút say sưa, ngay trong cuộc sống bình nhật cũng không ít hạnh ngộ đẹp, tôi được gặp nhiều người nam, người nữ rất trong sáng, yêu thương mình hết lòng. Dân tộc là thế đấy, thưa các bạn.

Vậy thì vào mùa thu rồi sang mùa rét 1959, ít khi tôi ra khỏi nhà. Ngày hai bữa cơm nghèo, mấy tấm áo quần đã sờn rách, một lũ con nhỏ dại lau nhau đi học, chơi đùa, đau ốm, tất cả tôi trao gánh nặng cuộc đời ấy cho người vợ rất giỏi chịu đựng kham khổ, người vợ thật hiền thảo, thật thương yêu chồng con (mà rồi đây, trong tập Nhớ lại một đời, tôi sẽ viết một chương riêng để đền đáp tình nghĩa lớn lao ấy cho người vợ đã giúp tôi đẩy chiếc xe thơ Về Kinh Bắc đi trọn đoạn đường thiên mệnh của nó).

Vâng, đúng là năm Kỷ Hợi 1959, từ khi chiếc lá bàng trước cửa nhà rụng xuống báo tin thu ( lá bàng chứ không phải lá ngô đồng), hồn tôi cứ chìm dần, chìm sâu, chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi còn nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét, mầu sắc, hương vị đã quá xa, đã “đi đâu, về đâu” tôi không thể biết nhưng cả một thời, từ khi vào tuổi bước đầu nhận thức được cõi đời này đến khi rời quê ra Hà Nội học tiếp rồi vào hẳn thế giới văn thơ (1938) nghĩa là cái khoảng thời gian 12 năm thơ trẻ ấy của tôi thì sống lại, và ngày đêm thầm thì nói chuyện với tôi về quê hương, về tình yêu, với những nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách, nỗi ly biệt cứ tầng tầng lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương trập trùng sóng gió, miên man xanh một màu huyền – diệu – dĩ – vãng rồi xẻ ngang, vạch chéo vút cao, xoáy sâu không biết bao nhiêu những nét rung động, có khi võ vàng, gầy mảnh, có khi tươi tắn, ngỡ ngàng, lúc như ai oán, lúc như mơ mộng nhưng vui ít buồn nhiều, cái đau của những thuyền tình không đến bến, những nguyện ước không thành, những mộng đẹp tan vỡ, những men say nửa chừng, những con mắt mỹ nhân đã khép, những tiếng hát người yêu đã tắt, những làn da mịn màng người gái quê Kinh Bắc đã nhăn nheo, những sợi tóc xưa óng ả nay đã úa bạc. Tất cả… tất cả… tôi bơi, chìm trong tất cả da thịt quê hương, hồn phách quê hương. Quê hương Kinh Bắc. Và lời mở đầu cho tập thơ là một lời cầu khẩn từ đáy tâm linh thơ dại :
Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc.

Nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng Người Mẹ. Mẹ là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương. Huống chi mẹ tôi xưa vốn là một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “ lúng liếng” thật tình tứ, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển, thanh tao và khi mẹ tôi mặc chiếc váy lụa kiểu Đình Bảng, mép váy buông chùng cửa võng xuống mu bàn chân, ai trông thấy phía trước mặt đều tưởng như người con gái này đang đi trên sóng rập rờn, nhất là khi người nữ biết cách mặc cho đúng “mốt Đình Bảng”, nghĩa là biết chếp nếp thế nào đó trên thắt lưng để ở phía dưới càng có nhiều pli càng đẹp. Cô nào giỏi chếp nếp thì từ mép váy lên có đến 4 pli. Nói rằng cô gái đang đi trên sóng, là một cách nói chuẩn xác.

Hơn nữa, mẹ tôi lúc chưa đi lấy chồng, nghĩa là chưa làm vợ người đàn ông sau này là cha tôi, đã nổi tiếng khắp vùng Tiên Du, Thuận Thành (hai huyện ở tả ngạn và hữu ngạn sông Đuống, thuộc tỉnh Bắc Ninh) nổi tiếng là cô thiếu nữ hát quan họ rất hay, năm nào cũng được các lão làng Bựu-Xim (tên làng quê gốc của mẹ tôi) khen thưởng cho cả phường hát ấy một tấm lụa điều và một bánh pháo đại quang toàn hồng. Lấy chồng rồi, ngoài công việc mưu sinh mẹ tôi vẫn theo các chị em đi hát. Tháng tám âm lịch thì tập luyện, sáng tạo ra những làn điệu mới, lời hát mới để đến ngày 13 tháng giêng sang năm, thì dự giải hát thi ở đình làng Bựu (làng này, thế kỷ 18, là nơi sinh ra người con gái tài sắc tuyệt vời Trần Thị Tần (1740-1778) để đến tuổi 18 thì Tần đi làm vợ thứ ba, người vợ yêu bậc nhất của quan Đại tư đồ Bình nam Tả tướng quân (ngang với Tể tướng) tên là Nguyễn Nghiễm, Xuân Quận công, và rồi sau sinh ra một đại thi hào cho đất nước : Nguyễn Du). Mẹ tôi (1891-1961) là con gái làng Bựu, đương nhiên được hưởng, được thừa kế tinh hoa quan họ. Đó là nghệ thuật hát thơ, những câu thơ (cốt lõi là thể lục bát) trữ tình, mang đầy sức quyến luyến, yêu thương, nhớ nhung, đằm thắm và da diết đến mức có thể làm say cả gỗ đá.

Lại cũng vì mẹ tôi cứ say mê với nghệ thuật hát mà thuở tôi chưa ra đời, giữa đôi vợ chồng trẻ (là bố mẹ tôi sau này) đã nảy sinh một bi kịch kéo dài đằng đẵng 12 năm. Năm 17 tuổi, mẹ tôi về Thuận Thành, làng Hồ, làm vợ bố tôi, mà tại sao tôi là con đầu lòng, mãi đến năm mẹ 31 tuổi, mới được xổ ra cõi đời này ? Thuở bé, tôi thường nghe các chú, các bác bên nội, bên ngoại kể chuyện một cách khái quát (không có chi tiết) rằng “bố mẹ mày chê nhau lâu lắm, đến hơn 10 năm đấy”.

Tôi nghe thế thôi, biết hỏi ai ? Ai kể chi tiết gì đâu về cái chuyện đôi vợ chồng ấy chê nhau đến hơn 10 năm? Bố tôi nguyên là một nhà nho (1886 – 1959), ba lần thi trường Nam Định không đậu nổi ở cấp hạng bét là tam trường, sau rồi bất đắc chí, bỏ làng đi dạy học lang thang và cũng lại lang thang đi chữa bệnh khắp các huyện trong hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi đâu như cũng là người yêu nước có khí tiết, đã tham gia các phong trào Đông kinh nghĩa thục, Đông du, Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Tôi còn nhớ hồi lên 6 tuổi, tôi thường phải đun nước, điếu đóm, hầu trà để bố tôi tiếp bạn thân là ông Xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu). Năm tôi lên 7 (1929) bố tôi đã bị viên tri huyện Việt Yên đem lính đến khám nhà rồi tống giam ở thị xã Phủ Lạng Thương đến gần một năm mới được tha về (có lẽ là ông bị tình nghi, đế quốc Pháp đã dẹp tan Việt Nam Quốc dân Đảng, bố tôi không có chứng cớ gì cụ thể để chúng buộc tội). Từ đó thì bố mẹ tôi sống yên phận : bố bốc thuốc Nam, thuốc Bắc chữa bệnh, mẹ trĩu nặng hai bồ hàng xén đi các chợ làng, chợ huyện, một cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu toả nắng, chăm chút nuôi con ăn học bằng cách thắt lưng buộc bụng. Nhờ vậy tôi mới có điều kiện học được hết bậc trung học ở Hà Nội.

Vậy là trong người tôi hoà quyện hai dòng máu. Dòng máu của nghệ thuật quan họ, dân ca hoà với dòng máu yêu nước, hào hùng và khí tiết, và cả hai dòng đều rất mực sắt son, thuỷ chung như nhất.

Thế nhưng, không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng? Hay chính là nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải sống cô đơn đến hơn mười năm ? Tôi lớn lên, chính mình được nghe mẹ kể : Lúc mẹ trở dạ sinh ra tôi thì gian nhà tre, mái rơm vách đất tiều tuỵ ấy rất trống vắng. Bố mẹ thì ở xa. Mẹ chồng goá bụa, già nua cũng ở xa. Chồng tuy mới làm lành với vợ được hơn một năm, mà người vợ ba mươi tuổi kia lúc mang thai cũng vẫn sống nhiều tháng ngày cô đơn, lạnh lẽo vì chồng cứ đi… đi đâu ? Dạy học hay làm thuốc rong, hay hội kín hội hở gì mà đi luôn thế, đến lúc vợ đẻ cũng không có mặt ở nhà ? Đến lúc đau quá, người thiếu phụ ấy kêu thét lên thì bên láng giềng mới có một bà chạy sang đỡ thằng bé ra đời, cắt rốn cho nó bằng con dao bổ cau rồi tắm rửa… tã lót cho nó, cũng may mà nó sống được, chỉ phải cái tội là sau mấy tiếng oa oa đầu tiên thì nó im bặt không khóc nữa. Chào đời mà không khóc cho thật to, thật dài hơi vào à? Thằng cu này gan nhỉ, hay là ai bắt mất vía để nó nghẹn không khóc lên được nhiều? Bà hàng xóm vừa bế tôi, vừa thắp hương lên cái ban thờ phía đầu giường, khấn vái bốn phương. Lúc đó đã gần nửa đêm 12 tháng giêng Nhâm Tuất (1922), chỉ còn một lát nữa là sang ngày hội Lim, hội quan họ, ngày mà nhiều năm về trước, mẹ tôi xúng xính áo the đen tứ thân, khăn vuông mỏ quạ, vành khăn nhiễu tam giang, váy lụa Đình Bảng, đi dép da trâu mũi cong, thắt lưng hoa đào hoa lý, cùng với bốn năm chị em phường hát đi ra đình từ sớm để rồi hát chúc, hát thi… còn ngay lúc sắp nửa đêm ấy, vào cái giờ tôi bật từ bụng mẹ ra cõi nhân gian rất đẹp mà cũng rất rắc rối lắm chuyện này, thì ở đình làng, cách nhà chừng non cây số, như văng vẳng vẫn còn tiếng trống chầu của đêm hát chèo. Mẹ tôi kể vậy nên tôi nhớ cả cái vùng Kinh Bắc cách đây sáu bảy mươi năm, các thôn làng thường mở hội suốt tháng giêng, tháng hai.

Hội to thì kéo dài dăm ngày, hội nhỏ nhất cũng phải một ngày một đêm mới rã đám. Những lời mẹ kể tôi nghe từ năm lên sáu về cảnh nhà, cảnh xóm, cảnh thôn xã, cảnh phố huyện, phố phủ, cảnh chợ núi chợ sông, rồi đến chuyện người, ông bà, họ hàng nội ngoại, người xóm thượng, xóm hạ, người quê gốc… người ngụ cư, người cấy cầy, người chợ búa, người làm quan, người đi lính, người “làm thày, làm thợ với làm thuê”, người dân nghèo, sang hèn, quen thân hay sơ, nhiều lắm, mẹ tôi kể nhiều lắm mà hồn tôi từ thuở bốn năm tuổi cho đến khi biết đến cái cầu Long Biên và phường phố đô thành, hồn tôi đúng là một trang giấy mỏng manh, trắng nõn, tinh khiết, mẹ kể chuyện nào là cũng in đậm ngay vào hồn tôi chuyện ấy để rồi giá tôi được sống đến mười mươi chăng nữa sẽ chẳng có một cái gì có thể xoá đi được, dẫu chỉ là một nét mong manh, một màu thoáng nhạt, một hương vị thoảng qua… Vậy nên, cả tập thơ Về kinh Bắc tôi viết từ lập thu 1959 đến giữa xuân 1960, là quê hương tôi, cảnh ngộ gia đình tôi…. số phận mỗi người thân yêu… nhất là số phận những người gái quê Kinh Bắc đã hiện lên thành 48 bài thơ gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể, một khối n-phương thống nhất chia làm tám nhịp, mở đầu là Cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc và sau khi Xong cuộc tuần du là mươi dòng ước nguyện tạm kết thúc một chuyến về thăm quê xưa, về Kinh Bắc.

Bốn tám dáng thơ đi tám nhịp
Tuần du
Chưa vợi khối ân tình

Vâng, một cuộc “tuần du” đi từ người Mẹ ngược về những sự tích huyền sử, dã sử, về những chuyện tình huyền thoại đến cả những chuyện thực đã diễn ra hôm qua và hôm nay. Gọi là chuyện nhưng thơ lại là kết tinh. Trong viên ngọc kết tinh của muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống vừa là xa xưa, vừa là đương đại, lúc huyền ảo, lúc hiện thực, như mê mà tỉnh, như ngủ mà thức, hư hư thực thực ấy, thì hình ảnh mẹ tôi bàng bạc bao phủ cả tập thơ, rồi đến một cậu bé con cầm chiếc lá Diêu Bông trong tay đi xuyên thời gian, xuyên suốt vùng quê đa tình, diễm ảo, và bên cạnh cậu bé con ấy là một người gái quê cũng đa tình diễm ảo, như cánh mây trắng mỏng cứ vần vụ, như chạy như bay, lại như đậu tà tà trên lá cỏ, trên cành hoa, lúc cao thì cao vút không ai níu được vạt áo, lúc thấp thì lại rành rành trước mặt như một cành cây, một chiếc lá bình thường. Hai nhân vật EM và chị này choán hết cả một nhịp – nhịp năm – của bản đại hợp xướng Về KInh Bắc trong khi cái giờ tôi ra đời thì tác giả đẩy xuống cuối nhịp bảy, sửa soạn cho nhịp cuối cùng của tập thơ. Đó là một khúc thơ có tên Luân hồi.

Nói chung, hầu hết những bài thơ của tôi được độc giả ưa thích trong nhiều năm bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu là từ ngoài tôi, vẳng lên đôi ba câu nghe rất rành rẽ, giọng nữ lảnh lót mà rất xa, như hát mà như đọc. Như một tia nước trong vắt phun lên từ ruột đất khi chúng ta thăm dò mạch nước ngầm để đào giếng, khi đã có đôi ba câu vẳng lên bên tai, tôi ghi ngay, bắt lấy ngay và từ đó là tình cảm, suy tư cuồn cuộn trong người, tôi thường tiếp được mạch khởi xướng ấy và nối luôn các đợt sóng tuôn trào cho đến khi thấy trong người yên ắng, nhẹ nhõm là bài thơ cũng hoàn tất. Ví dụ như bài thơ dài Bên kia sông Đuống (tôi đã viết rất tỉ mỉ, thuật lại những trạng thái của tâm tư mình trước lúc bật ra thơ, bài viết ấy đã đăng trên Tuần báo Văn nghệ số kỷ niệm 35 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, tháng 5 – 1992) tôi đang ở trong trạng thái bồn chồn, thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo cáo về quê hương mình bị giặc Pháp xâm lược kéo lên tàn phá, giết chóc, tôi chưa định viết gì, lúc quá nửa đêm vắng lặng, bỗng văng vẳng bên tai ba câu :

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa… cát trắng phẳng lỳ

Tôi bèn chụp lấy, ghi ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một mạch dài, viết rất nhanh, sợ không theo kịp những thanh âm, làn điệu đang cuồn cuộn dâng lên trong lòng mình. Cho đến gần sáng thì xong bài thơ, một trong những bài được các bạn già, trẻ, nam, nữ yêu mến đã gần nửa thế kỷ. Những bài thơ như vậy, thường là không theo một ý nghĩ, một tư duy nào định trước, tác giả giống như một cậu học trò viết chính tả, lúc đầu là viết theo tiếng đọc rành rọt bên tai, sau là viết theo tiếng đọc thầm thì từ trong tâm can mình, ở những trường hợp ấy, tôi không hề cấu tứ, nghĩ ngợi gì về câu, chữ, không theo một luật lệ nào gọi là thi pháp hoặc tu từ, hoặc chịu sự ràng buộc nào của phép tắc về thanh điệu, ngữ điệu gì gì hết. Tôi chỉ tuân theo nhịp rung động của toàn thân, cả tâm hồn và thể chất, khí chất.

Đương nhiên, những bài bật ra như vậy không nhiều, còn người làm thơ thường phải khổ công tu luyện những con chữ, tu luyện từ ngữ đến nhịp điệu từng câu, tạo ra điệu riêng từng bài thì sau cùng mới có thể tạo cho mình một thế giới riêng. Đặc biệt, có bài Lá Diêu Bông, duy nhất có một bài này hoàn toàn là những lời văng vẳng bên tai, từ đầu chí cuối, quá nửa đêm mùa rét 1959, trên giường ngủ, trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ 6 watt, bên cạnh người vợ đang ngủ ngon và các con những giường bên cũng đang ngủ say. Tôi không gây một tiếng động khả dĩ làm mất giấc ngủ của những người thân. Đêm nào, khi lên giường nằm, tôi cũng cầm sẵn một tập giấy trắng bên tay trái và cái bút chì bên tay phải. Nếu ngủ được thì càng tốt, nhưng thường về đêm, tôi cứ hay thao thức, trằn trọc vô cớ. Chẳng có chuyện gì phải lo nghĩ, chẳng có ý định gì trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Bốn bề yên tĩnh. Nhà tôi ở vào một phố nhỏ, lại lùi tít vào phía trong nên tiếng xe cộ thưa thớt ngoài đường tôi cũng không nghe rõ. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về :

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…

Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay lên giấy. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im bặt hẳn, lòng tôi nhẹ bẫng đi, được một lát thì tôi ngủ thiếp. Sớm hôm sau nhìn lại trang “bản thảo” thì có chỗ rõ, đọc được, nhiều chỗ dòng nọ đè lên dòng kia, chữ này xoá mất chữ khác. Phải mất nửa giờ, tôi mới tách được ra theo thứ tự đúng như những lời người nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi viết lúc quá nửa đêm hôm qua. Bài Lá Diêu Bông ra đời như vậy, nói có người không tin, nhưng tôi nghĩ bây giờ khoa tâm thần học, vô thức luận, tâm linh học có thể lý giải được hiện tượng đó một cách rất khoa học.

Vậy nên, cái lá diêu bông là cái lá gì, ở đâu, nào tôi có biết. Thần linh đọc diêu bông, tôi chép diêu bông, thế thôi. Nhưng nó có nguồn gốc đấy. Năm 12 tuổi, tôi say mê một người con gái láng giềng hơn tôi những 8 tuổi. Vì từ năm lên tám, tôi đi trọ học trên thị xã Phủ Lạng Thương, chiều thứ bảy, mươi phút xe lửa lại đưa tôi về nhà, ở cái phố ga xép Như Thiết, tên chữ nhà ga đề là Núi Tiết, thực tên là Thiết Sơn, một tổng thuộc huyện Việt Yên. Phố ga ấy cách Hà Nội 44 km. Còn 6 km nữa thì qua cầu sông Thương (con sông Thương nước chảy đôi dòng), tới ga Phủ Lạng Thương. Đường số 1 chạy qua trước cửa nhà, sau lưng là đường xe lửa Hà Nội – Lạng Sơn ngăn cách với mảnh vườn nhỏ sau nhà bằng một hàng rào cắt xén khá đẹp trồng toàn những cây ruối, dâm bụt dày dặn. Nhà tôi có tủ thuốc bắc của ông bố, có đôi bồ hàng xén của bà mẹ.

Một chiều thứ bảy, khoảng hơn 4 giờ, tôi về chưa kịp bước vào trong nhà đã thấy một cô gái đang mua gì của mẹ tôi. Khi cô ấy ngửng đầu lên, nhìn ra đường thì cậu bé lên tám choáng người, như sau này người ta thường nói là bị “coup de foudre”1. Người con gái đẹp đến mê hồn. Rồi thứ bảy sau, về nhà, tôi trao bức thư tỏ tình đầu tiên viết bằng thơ lục bát, dài hơn một trang giấy kẻ học sinh trên có vẽ hoa vẽ bướm, một vài ngọn núi, một dòng sông với chữ viết đậm, mực tím, nắn nót : Em gửi Chị Vinh của Em. ấy, sở dĩ mới bé tí đã làm được một trang thơ lục bát vì ở trên nhà trọ, chỗ thân tình với bố tôi, chủ nhà chính là ông sếp ga xép Núi Tiết ấy, gia đình ông trên tỉnh đông con, làm nghề hàng xay hàng xáo, đêm nào cũng xay lúa giã gạo rồi dần sàng quạt sẩy đến khuya. Tôi học bài, làm bài xong, tuy buồn ngủ, các anh các chị cứ bắt xuống nhà ngang, từ 9 giờ tối, đêm nào cũng phải đọc đủ các thứ truyện dân gian, in khổ nhỏ, bán rẻ từ 2 xu đến 1 hào, đủ các loại truyện, thể thơ lục bát, từ Trê Cóc đến Truyện Kiều, từ Nhị Độ Mai đến Hoa Tiên, rồi Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa… Lục Vân Tiên, Phạm Tải, cả Cung oán ngâm khúc đến Chinh Phụ ngâm… v. v… Vì thực ra, ngay từ bé tôi sớm có giọng hát hay, ngâm thơ cũng hấp dẫn người nghe lắm.

Đọc hết lượt, phải đọc lại. Thể thơ lục bát thấm vào người từ nhỏ tuổi, mình lại bẩm sinh yêu thích thơ ca, nên tôi có viết bức thư tình gửi người gái Kinh Bắc, người Chị làm Em say mê ngơ ngẩn suốt năm năm ấy, mà thư tình lại viết bằng thơ lục bát thì hẳn không phải là điều gì đáng ngạc nhiên phải không, thưa các bạn ? Tôi say mê Chị, Chị đi đâu Em theo đấy, chỉ biết gọi Chị ơi, chứ còn biết nói gì hơn. Người gái tuyệt sắc ấy con một nhà nho chẳng may chết sớm, ba mẹ con, mẹ goá con côi nghèo khổ, đèo bòng nhau lên cái phố xép này mở ngôi hàng bán kẹo bánh, nước chè tươi, nước vối, cả bánh đa, bánh đúc, bánh chưng, bánh mật, bánh khoai. Chị Vinh võ vẽ chữ nho, đọc thông quốc ngữ, người quê gốc cũng Tiên Du, nên hát quan họ thì làm mê người ta ngang với nhan sắc của Chị. Chị cũng thừa biết thằng bé con này nó mê đắm mình nên Chị cứ hay trêu đùa, lắm lúc tôi phát khóc, nhưng cũng nhiều giờ phút tôi có một hạnh phúc không gì sánh bằng là được Chị Vinh cho ngồi sát bên Chị, chầu rìa những cuộc chơi tam cúc ngày Tết, ngày xuân hay ngày hội. Chị thường hay nhờ những đêm trăng sáng vào mùa hè, mùa thu, tổ chức những đám thanh thiếu niên tụ tập ở cái bãi sau ga, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát giao duyên, hát vấn đáp, đặc biệt là về môn hát quan họ thì Chị là bà Chúa của dân ca ! Giọng ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen thăm thẳm với hàng mi cong và dài, má luôn luôn ửng đỏ, môi luôn luôn đã hồng lại thường hay cắn chỉ quết trầu, răng đen rưng rức hạt na.

Chị Vinh ơi, viết đến đây, Em vẫn bồi hồi nhớ từng sợi tóc Chị dán trên vầng trán, từng con mắt Chị lúng liếng tình tứ, từng giọng hát, từng lời nói, từng nụ cười, Em còn ngửi thấy hơi tóc ấm của Chị thoảng mùi hương nhu mới gội buổi chiều, mà nếu Chị buông tóc dài gần đến mắt cá chân để hong khô thì cả suối tóc ấy làm thành thế giới mê say của riêng Em từ độ ấy đến nay, dẫu tóc Em đã trắng hết, Em vẫn có thể vẽ đúng chân dung Chị tuyệt vời nếu có người chỉ dẫn cho Em đôi điều sơ đẳng về nghệ thuật hội họa. ảnh Chị in mầu trong hồn Em, không một nhà khoa học nào có thể làm ra cho Em những tấm ảnh như Em đang có trong một mảnh hồn lả lướt xanh xao, trong một tâm tư u buồn chạng vạng mà vẫn còn đầy đủ và tươi tắn, nguyên vẹn những kỷ niệm từ sáu bảy chục năm xưa đấy, Chị ơi !

Tình của người Em với người Chị ấy, sơ lược là thế. Tôi sẽ viết tỉ mỉ hơn nhiều trong tập hồi ký sau này, để một số bạn ở xa quê hương hiểu kỹ về tôi hơn, tránh được những điều bình luận sai lạc thậm chí nguy hiểm nữa mỗi khi luận về những thi phẩm của tôi. Trong tập Về Kinh Bắc, thì hai nhân vật Chị và Em ấy đã xuyên qua năm tháng và không gian, qua mưa phùn và nắng rát, qua biết bao hình thái của tâm tư, của số phận, mà trội lên vẫn là cái sầu đơn phương, cứ vấn vương mãi, cho tôi nhớ mãi đến hết một kiếp này, biết đâu còn xót xa yêu thương vào tận kiếp sau… kiếp sau nữa…

Vậy chỉ mới sau vụ Nhân văn – Giai phẩm có một thời gian ngắn, thơ của tôi đã lùi về quá khứ, chẳng biết có phải ẩn dụ ẩn diếc gì chăng, chỉ có điều là qua thời gian viết được ra 48 bài thành tập thơ Về Kinh Bắc này, tôi không một phút nào nghĩ đến thời cuộc chính trị và xã hội trước mắt. Tôi chìm về một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà tưởng như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh mầu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thắm của say mê não nùng, của thương cảm không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời gian không hề suy suyển đến một sợi mi cong… Như gần đây tôi đã phải thốt ra : “Mắt thời gian càng miên man xanh”.

Rồi Chị Em Đi Về Kinh Bắc, lúc thì đố Lá diêu bông, lúc vào Vườn ổi, lúc Đánh tam cúc, lúc lên Ngọn sông Thương, lên tít Ngọn Kỳ Cùng, lúc Đếm sao, Đếm nắng, Đếm giờ, Em cứ theo đuổi Chị qua hội hè rồi qua cả những tàn tạ của cảnh vật và lòng người, cho đến mùa rét năm 1934. Cái Lá diêu bông bắt nguồn từ buổi chiều năm ấy, hình như vào dịp lễ Thiên chúa Giáng sinh, những bốn năm ngày liền tôi về gia đình ở cái phố ga xép đìu hiu ấy, nghĩa là cứ được nghỉ học thì tôi về ngay nhà với niềm say mê đơn phương, một chuyện tình có Chị có Em mà tôi vẫn chỉ là một khối cô đơn “lẽo đẽo bụi hồng”. Tôi đã 12 tuổi và chị Vinh đã 20.

Vào chiều mùa đông năm ấy, nắng hanh vàng rộm. Trời xanh trong màn sương cực mỏng không một gợn mây. Heo may se se lạnh. Chị mặc váy kiểu Đình Bảng, áo cánh lụa mỡ gà đã cũ, có mảnh vá trên vai, ngoài bó chẽn lưng ong bằng cái gi-lê tím, sờn rách, chiếc yếm màu cánh sen đã nhạt, dây thắt lưng hoa đào phai, Chị thoăn thoắt đi ra ngoài cánh đồng, ngày ấy lúa đã gặt hết. Cả cánh đồng rộng đầu cái phố ga xép ấy chỉ còn trơ những cuống rạ tít tắp đến chân dãy núi Neo. Cậu bé Em 12 tuổi, vốn dĩ lúc nào cũng trông ngóng, ngó nhìn, chờ đợi Chị, thấy Chị đã bỏ cửa hàng chiều vắng khách, mặc cho đứa em trai lên sáu ngồi xua ruồi hoặc ăn vụng cái kẹo vừng, rồi thấy Chị bước nhanh ra cánh đồng, đương nhiên là cậu Em theo ngay, và bất kỳ đi theo Chị ở đâu, đến đâu, cũng chỉ cách sau lưng Chị có ba bước. Chị đi trên bờ ruộng, cứ vạch từng búi cỏ đầu bờ hoặc từng đám cây hoang dại trên mấy cái gò nhỏ giữa đồng và cứ cúi tìm… tìm mãi… chả biết Chị tìm gì vậy.

Em cứ theo sau, không hỏi, không nói, trống ngực cứ thập thùng từng giây phút theo đuổi, miệt mài lâng lâng say. Lâu lắm, bỗng Chị đứng thẳng người quay mặt nhìn Em, rồi nói, như một lời trách, như một lời quở mắng, lại như một lời mình nói với chính mình (gần 60 năm rồi, hôm nay tôi còn nhớ như in từng lời trong bộ não đã hơi suy, trong tấm lòng may thay vẫn là tấm lòng 12 tuổi) : “Ơ hay ! Sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng mãi thế nhỉ ?”. Máu Em dồn lên nóng ran khắp người, hẳn là cậu Em đang đỏ mặt, môi Em run run, không nói lại với Chị được nửa lời. Hình như Em thoáng thấy Chị mỉm cười, rồi Chị lại bước sang bờ ruộng khác, vẫn tìm… tìm mãi. Nắng đã sẫm dần. Mãi sau, Em mới bạo dạn hỏi :
Chị Vinh ơi ! Chị đi tìm cái gì thế ?
Chị Vinh quay phắt lại, hình như má Chị hồng hơn lúc nãy. Chị nhìn thẳng, nhìn xoáy vào mắt Em và gần 60 năm rồi, tôi vẫn nhớ như vẽ cái miệng rất tươi của Chị đậm nét một nụ cười trêu cợt rất bí ẩn kiêu xa. Chị nói, cũng một giọng bỡn cợt như thách đố, như đùa vui trêu ghẹo :
ừ, Chị (các bạn chú ý dùm tôi cách thay đổi chủ từ trong câu nói này của Chị) Chị đi tìm cái lá… ấy đấy, đứa nào tìm được cái lá ấy (Chị càng cười càng rõ vẻ trêu cợt) ta gọi là chồng !

Các bạn ơi, nghe vậy, tim tôi như lặng đi ngừng lại vài giây rồi đập rất mạnh, người tôi nóng ran lên trong buổi xế chiều càng lạnh. Lúc đó, Chị nói tên một cái lá có lẽ có thật, chỉ mấy năm sau thì tôi quên bẵng, thôi thì hôm nay tôi cứ gọi cho nó có tên như Chị đã gọi tên, lá thanh thảo hay đài bi chẳng hạn, hoặc gọi lá tai voi, lá mắt nai gì đó, xin thú thật với các bạn là ít lâu sau buổi chiều mùa rét ấy, tôi không nhớ nữa. Nhưng ngay lúc bấy giờ, sau cơn nóng bừng, toàn thân ấm áp vào tận đáy thẳm tâm hồn ấy, tuy mới 12 tuổi, tôi cũng đã nghĩ ngay ra rằng cái lá ấy rất hiếm, ở những vùng nào nhiều đồi núi, khe suối cơ, may ra mới tìm được, mà tìm lá ấy chắc là để chữa khỏi một chứng bệnh gì hiểm nghèo nguy kịch hoặc có khi lại lấy lá vò nát ra, hay giã kỹ lấy nước xoa lên khắp mặt sẽ làm cho da dẻ tươi hồng, mịn màng lên. Nhưng hẳn là khó tìm lắm lắm, chả thế mà Chị đi hết bờ này bãi nọ, gần cả một buổi chiều, có thấy được đâu ! Cái lá oái oăm thế ! Chị mới trêu đùa thằng bé mà Chị biết là nó đang say mê mình, nó “phải lòng” mình từ năm năm nay rồi… còn gì ! “Đứa nào tìm được… ta gọi là chồng !”.

Chị Vinh ơi, bây giờ Chị ở cõi nào, nếu còn sống, Chị cũng đã gần tám mươi tuổi đấy chứ, sao hôm nay, Em đã ngoài 70, lúc Em viết những trang nhớ lại này, Em hoàn toàn vẫn là đứa em 12 tuổi đang theo Chị và Chị vẫn đang tuổi hai mươi, ngoài cánh đồng chiều làng Như Thiết ấy, Chị vẫn trẻ đẹp diệu kỳ Chị ơi !
Chiều ấy, trời xẩm tối rồi, Chị lại cho Em được cầm tay Chị. “Chị em thơ thẩn dan tay ra về”… mà nào đâu chiếc lá ? Hết phép nghỉ, tôi lại lên thị xã ở trọ, ngày hai buổi đến trường, cặp sách trong tay, hình ảnh Chị trước mắt, lời nói trêu đùa của Chị không lúc nào không réo gọi trong tấm lòng cô đơn trống trải của cậu con trai sớm đã si tình.

Chiều thứ bảy sau, khi tôi xuống tàu, vào phố xép đi về nhà, nhìn sang nhà Chị Vinh thấy cánh liếp đóng im ỉm. Tôi như lạc mất trí, chạy vội vào nhà, cũng không kịp chào mẹ tôi đang ngồi khâu vá trên cái chõng tre, mà hỏi ngay :
Mẹ ơi, sao bên nhà chị Vinh lại đóng kín cửa thế hả mẹ ?
Mẹ tôi kéo tay tôi ngồi sát bên, nói rất nhỏ, mà hình như trong giọng nói của mẹ tôi có cái gì như nước mắt nghẽn lại :
Nó đi lấy chồng rồi, con ạ.
Tôi bỗng khóc oà lên, khóc như có một thế giới nào vừa đột ngột nổ vỡ tung ra trong vũ trụ. Tôi gục đầu vào lòng mẹ, khóc m•i, lòng mẹ tôi đấy mà sao tôi lại khóc như đứa trẻ lên ba, mẹ đang bế đi chơi, đến một cánh đồng chiều vắng, bỗng dưng mẹ biến đi đâu mất, để đứa bé bơ vơ giữa mênh mông trời đất cô quạnh và xa lạ, lạnh lẽo thế. Mà nó khóc !

Tôi chỉ kể với các bạn đến đây thôi, còn cuộc đời người Chị ấy về sau, tôi chỉ xin tóm gọn bằng bốn chữ đã quá cũ kỹ, nghe rất sáo mòn, nhưng tôi không thể dùng được những từ nào khác ngoài bốn chữ ấy : Hồng nhan bạc mệnh…
Trở lại mùa rét năm 1959, nghĩa là đúng một phần tư thế kỷ đã qua sau cái buổi chiều mùa đông có Chị có Em trên cánh đồng quê. Chị đi tìm lá rồi… Chị đố lá… “Đứa nào tìm được… ta gọi là chồng…” Và bài thơ Lá diêu bông ra đời trong đêm khuya, như tôi đã kể ở trên, bài thơ duy nhất trong đời làm thơ của tôi do thần linh giọng nữ cao đọc từ đầu đến cuối cho tôi chép như viết chính tả. Còn một số bài khác như Cây tam cúc, Quả vườn ổi, Cỏ Bồng thi, Bên kia sông Đuống, Chùa Hương, Về với ta… những bài cũng được nhiều bạn đọc ưa thích trong nhiều năm nay thì bao giờ cũng ra đời trong đêm và vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là của tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc có nhịp điệu, có tiết tấu, mà tôi cứ xin gọi là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được. Nếu chợt nghe mà lười biếng, hoặc chủ quan nghĩ rằng để sáng mai sẽ ghi lại ra giấy thì chỉ một vài phút sau, muốn nhớ lại, không tài nào nhớ nổi một chữ, đừng nói là cả ba bốn dòng…

Trong đời làm thơ của tôi, thời còn trai trẻ, tôi đã mất khá nhiều những câu thơ “xuất thần” bất chợt trong đêm khuya, lúc chưa ngủ được, nên từ hồi đầu kháng chiến chống Pháp, tôi đã rút kinh nghiệm, cứ đến giờ (thường là gần nửa đêm) lên giường ngủ, bao giờ tôi cũng để bên phía tay trái mình một tập giấy trắng và tay phải cầm cái bút chì học sinh (bây giờ đ• có bút bi thay cái bút chì). Hễ không ngủ được, tâm tư lan man đâu đâu, gì gì đó, mà bỗng nghe vẳng một câu, dẫu chỉ là một câu bâng quơ, tôi phải ghi ngay lập tức. Lười một tí thôi là mất đứt. Mà thường lại là những câu thơ rất có sức gợi cảm. Dẫu tiếng văng vẳng đã tắt, mà cảm xúc chưa tan, thì những dòng thơ cứ tự nhiên bật trào ra ngay, tôi viết tiếp bằng cảm xúc của mình. Y như đã có tia nước phun lên thì phải tiếp tục đào đất, chắc chắn sẽ có được cái giếng đầy nước. Lúc đó thì cả ba loại thơ (như các nhà phê bình văn học Trung Quốc đã đúc kết thành lý luận về thơ) là ngôn thi, tâm thi và thần thi đều có thể xuất hiện trên trang viết.

Và cùng lúc đó thì có ba cái “thức” đều phải vận động, phải làm việc cho thơ. Đó là ý thức, tiềm thức và vô thức, cũng đủ cả một cặp : trí thức và tâm thức nữa. ở tôi thì luôn luôn cái tâm thức làm việc nhiều hơn trí thức, nhất là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi đã huy động tất cả nội lực của mình : cả thể lực, trí lực, tâm lực và đương nhiên, ở tôi, thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều lời thơ lắm khi tưởng như vô nghĩa, mà ngay bản thân tôi cũng không hiểu những từ ngữ chính mình viết ra mang ý nghĩa gì cụ thể. Ai hỏi tôi lá diêu bông, cỏ bồng thi là lá gì, cỏ gì, ở đâu ? Tôi chịu không giải thích được. Ngay cả nhiều sinh viên khoa Văn ở Hà Nội cũng đã hỏi tôi : “Miếu Hai Cô” là ở đâu ? Hai Cô nào ? Tại sao lại thờ ? Hoặc cầu bà Sấm là trên con sông nào, bến cô

Mưa là ở khúc nào của con sông nào, tôi cũng chịu không có lời giải đáp.
Tôi nghĩ rằng, trong lĩnh vực thơ ca, những khúc hát hay, những bài thơ, những câu thơ hay thường rất khó giảng hết được cái hay của nó. Vì ngoài ý nghĩa cụ thể của từng câu, từng chữ, thơ lại còn nhạc điệu, mà theo tôi hiểu, nhạc điệu của một bài thơ lại chính là chiếc xe chở cái hồn của bài thơ đi để nhập, để hoà với hồn người đọc. Và người xưa cũng đã nói từ lâu đến “thi tại ngôn ngoại”. Thơ đã có ý là dễ hiểu. Nhưng thơ lại còn cái tứ. Cái tứ ở đâu ra ? Từ chữ, từ âm vận, rồi âm điệu. Cái tứ của thơ, phải đọc được ngoài lời. Có nhiều bài thơ mang một tứ rất lạ, rất khó giảng, khó bình, mà nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi.

Tôi hy vọng, rất chân thành, được gặp những tâm hồn bầu bạn, có độ lượng để bao dung, có tấm lòng nhân ái để thông cảm, có tri thức đủ để hiểu thấu đáo tác phẩm và tác giả, hiểu cả điểm mạnh và điểm yếu của một người suốt đời lấy Thơ làm cứu cánh, làm mục đích, làm lẽ sống, chứ không bao giờ lấy Thơ làm phương tiện để cho mình đạt tới những gì gì đó mà tâm hồn mình không thể chấp nhận. Ví dụ như danh và lợi, sự bon chen, sự cầu cạnh, sự tâng bốc nịnh hót, dèm pha, thù hận v..v… là những cái rất xa lạ với tôi, có lẽ xa lạ cả với Thơ chân chính nữa.

Tôi đã trở về với tâm tư riêng, thế giới riêng của mình như đã nói ở trên, về với quê hương xưa, vùng Kinh Bắc xa xưa mà vẫn gần gũi, về với những người đã khuất bóng ở nhân gian nhưng mãi mãi hiện diện trong tâm hồn tôi. Và tập Về Kinh Bắc đã ra đời như thế, mặc nhiên thành cột xương sống cho toàn bộ thi phẩm của tôi kể từ những năm 40 của thế kỷ này.

Hà Nội, những ngày cuối năm
Nhâm Thân 1992
H.C

 

Hoàng Cầm – Một Đời “Nhớ Tiếc”, Một Đời “Níu Xuân Xanh”
Hoàng Hưng

Là nhà thơ được yêu mến bậc nhất trong đời sống thơ đương đại, gần một năm sau khi lìa trần, Hoàng Cầm vẫn là một hồ sơ chưa được bạch hóa. Cả về đời lẫn về thơ.

Về đời, tuy ông đã kể khá nhiều với người hâm mộ, với giới truyền thông, nhưng tiếc thay phần lớn chỉ là những câu chuyện tình đã được thi vị hóa và huyền thọai hóa trước tiên bởi chính người kể và khuyếch đại sau đó bởi người nghe, trong khi phần quan trọng nhất trong văn nghiệp cùng những hệ lụy của nó lại chưa có cơ hội trình ra ánh sáng. Về thơ, có thể nói ngoài những tác phẩm tình ý rõ ràng như Đêm liên hoan, Bên kia sông Đuống…, thành tựu lớn nhất của ông là Về Kinh Bắc chưa được hiểu và phân tích đến nơi, một phần do tính chất mơ hồ, đa diện, đa nghĩa của một số bài quan trọng, mà chính tác giả cũng nói rằng mình không minh định được, ông còn sẵn sàng khoác thêm một màn sương khói hư hư thực thực bằng những câu chuyện kiểu như bài thơ ra đời từ tiếng ai văng vẳng trong đêm…

Lại nữa, truyền thông nước ta góp phần lớn vào việc làm cho công chúng cảm nhận Hoàng Cầm một cách phiến diện. Trong suốt hai thập niên trở thành gương mặt văn học“ăn khách” bậc nhất, ông luôn xuất hiện như một khách thơ tài hoa đa tình quanh quẩn với hai lọai tình: tình quê hương quan họ và tình “chị – em” độc đáo, ông như bị chế biến thành món giải trí dễ dãi cho một số đông tò mò hơn là thực sự thưởng thức văn chương.

Có lẽ đây là dịp để, sau những tràng vỗ tay ồn ào cũng như những vòng hoa thương tiếc, cả sau khi những ân oán thời cuộc thường chi phối sự nhìn nhận tác giả và tác phẩm đã lùi xa vừa đủ, ta có điều kiện lắng xuống, tịnh tâm để nhận diện con người và thơ Hòang Cầm một cách thuần túy hơn.

Tôi chưa dám nói về kịch thơ, truyện thơ Hoàng Cầm, ở đó ngay từ Kiều Loan, và sau đến Người con gái nước Tần, Trương Chi, tài năng của một nhà soạn kịch sóng với tài năng của người nhuần nhụy ngôn ngữ thơ đảm bảo giá trị cho những tác phẩm thuộc một thể loại sân khấu tiếc rằng vì hoàn cảnh lịch sử đã không được nuôi dưỡng. Tôi tự hạn chế trong lĩnh vực THƠ viết hoa.

Điều đầu tiên tôi muốn nói, Hoàng Cầm đa dạng hơn những gì công chúng quen nhìn thấy.

Ở nửa cuối cuộc đời, người ta dễ thấy ông, mà ông cũng thường tự nhận, là con người dễ dãi, ủy mị, thậm chí nhu nhược, có gì đó nữ tính,“theo dòng mẫu hệ”. Có thể trong sâu xa con người ông phần “âm” có sẵn đã nổi lên do hoàn cảnh khốn cùng ông bị đẩy vào, trong hoàn cảnh ấy cái “âm”, cái “ẩn” có tác dụng bảo toàn, che chở. Cũng nên lưu ý đến tính nữ ở những vai nam trong quan họ hay chèo, một đặc trưng văn hóa dân gian đông bằng Bắc Bộ mà Hoàng Cầm thấm đẫm. Vì thế người ta dễ quên đi gương mặt hùng của anh bộ đội Hoàng Cầm trong tấm ảnh mũ nan áo trấn thủ chụp ngày mới giải phóng thủ đô, quên đi giọng ngâm thơ sang sảng trên đài phát thanh của một Hoàng Cầm trong Đêm liên hoan “Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng/ Ta muốn hét cho vỡ toang lồng ngực/ Vì say sưa tình thân thiết vệ quốc đoàn”. Mê mải những “em mặc yếm thắm em thắt lụa hồng” bên kia sông Đuống, ta bỏ qua những anh “bộ đội bên sông đã trở về/ Con bắt đầu xuất kích/ Đồn giặc bắt đầu run trong sương/ Dao lóe giữa chợ/ Gậy lùa cuối thôn.” Cũng như khi cùng tác giả trở về Kinh Bắc, bị ám ảnh quá nhiều vì cái lá Diêu Bông, cỗ bài tam cúc chị chị-em em, người ta không mấy quan tâm đến tâm trạng bi phẫn Trăng lên chém đầu ngọn gió, Cành si bưng chậu máu chát chao… Người ta cũng tránh nhắc đến dũng khí của một nhân vật chủ chốt Nhân Văn – Giai Phẩm, người quyết định công bố Nhất định thắng và sau đó khẳng khái bênh vực tác giả của nó (Con người Trần Dần).

Tất nhiên thơ Hoàng Cầm cũng đa dạng như con người ông. Và thay đổi khá nhiều theo theo thời gian, hoàn cảnh. Không thể nhận ra tác giả những lời thơ lãng mạn tuổi 20 “Những khoảng chiều buồn phơ phất lại/ Anh đàn em hát níu xuân xanh” trong những giai đoạn kháng chiến, đầu hòa bình. Nhưng đến những năm tháng của tuổi 70, 80 thì ta nhiều lúc bắt gặp ông trở lại nhạc điệu, thi ảnh, và cả ngôn từ của thời “vớt mắt em về bến hoá sinh”. Vâng, ở cái tuổi xưa nay hiếm, Hoàng Cầm vẫn chạy theo những mối tình đơn phương, ảo vọng, vẫn “níu xuân xanh” với hết sinh lực (không còn bao nhiêu) và thi lực (vẫn tràn đầy).

Giữa hai đầu lãng mạn đầu đời và “níu lãng mạn” cuối đời, ta có Hoàng Cầm thơ kháng chiến lượng không nhiều mà nổi đình đám chỉ cần với một Bên kia sông Đuống. Một Hoàng Cầm thơ trữ tình phê phán sắc sảo và cay độc thói quan liêu đạo đức giả: “Rúc đầu vào nách vợ/ Hút hít như chó con…Mắt thầy nhắm nghiền lại/ Thầy đọc kinh giáo điều… Dao ngọc với gươm vàng/ Chém nát nhừ trận gió…”, “Diễn văn cót két chân giường mới/ Gặm hết tình yêu hết ước mơ. Ta có cả một Hoàng Cầm biết tụng ca anh hùng với những hình tượng sáng tạo “Anh đứng là lưỡi cày/ Anh nằm là dòng mương/ Anh ngồi là cót thóc/ Anh đi là con đường”. Rất ít người để ý đến một Hoàng Cầm mới lạ của tổ khúc thơ rock siêu thực – xuất biểu có một không hai trong thơ Việt Nam (U gì, tặng khối u của Đặng Đình Hưng) đầy bi phẫn kinh hoàng ác mộng: “Lỗ chỗ chín chậu nắng tóe mắt võng rách tụt cân đai yên ngựa què kéo đen ngòm cỗ xe bánh vuông (không thấy mui) sa lầy bãi sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc cung rê-ma-giơ quắt nhức ba cạnh nhung gai lì ái ân gì dài thon mười búp lóa kim cương trắng sữa đầu vú núi cao ngất lùm cỏ ngọt ước ao”… “lố nhố nhiều u gì sau xe hình mắt lé mã tấu trùng trùng răng chuột mặt nạ người đẹp ngọt xớt thanh xà nép lá bồ đề”.

Nhưng có thể nói, tác phẩm gắn chặt nhất với tên Hoàng Cầm truyền lại cho hậu thế phải là Về Kinh Bắc. Hoàn cảnh ra đời tối ưu cho một kiệt tác: tác giả bị dồn đẩy vào tâm thế chìm đắm hoàn toàn trong thế giới hoài niệm với thơ là nơi bấu víu, là nguồn sống, là năng lượng giải thoát độc nhất (“cô đơn là cứ phải toàn phần mới sinh năng lượng” – Đặng Đình Hưng); tác giả đang ở độ chín tới của tuổi tác và tài năng.

Về  Kinh Bắc là tổ khúc tám nhịp hồi quang một vùng văn hóa lịch sử, trên nền ấy nổi lên nhịp Năm gửi gắm tâm sự của một đứa “Em” (không) gửi tới “Chị”, người mà “Em” thầm yêu, cả tin, rồi vỡ mộng, nhưng chẳng dám thốt ra lời gì hơn là nỗi lòng bơ vơ, ngậm ngùi, có chút hờn trách.

Hồi quang Kinh Bắc đầy màu sắc. Với những chớp lóe ấn tượng thật gợi cảm trong nhịp Một, cũng là khúc dạo (prelude) của một đại tổ khúc, gồm năm đêm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ – lướt nhanh một Kinh Bắc huyền tích (Néo Đông Triều khép mở gió kỳ lân/ Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ…), Kinh Bắc huê tình non tơ (Chũm cau căng nứt mạch tằm/ Yếm may ba ngày mẹ vá lại… Gió ra hồng da trinh nữ… ong bay vai áo tiểu thon mình), Kinh Bắc bi tráng (Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng), Kinh Bắc ma mị (Châu chấu ma vờn cổ yếm xây…Trò chuyện gì ai đâu/, mồ tháng giêng mưa ướt sũng…), Kinh Bắc của những sinh hoạt văn hóa dân gian giàu bản sắc (Hình nhân má điệp tóc mực tàu/ Mắt nghiêng dựa liếp/ Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu… Kèn già lam ai tập thổi/ Gió mất chồi xuân đay nghiến luỹ tre dầy… Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu…). Với lịch sử bi hùng được kể trong ba nhịp Hai, Ba, Bốn. Với chân dung những người con gái đa tình, đa truân trong nhịp Năm. Với phác họa những hội hè trong nhịp Sáu. Có thể nói Về Kinh Bắc cùng với truyện thơ Tiếng hát quan họ và nhiều bài thơ lẻ cuối đời cho thấy Hoàng Cầm là kết tinh vùng văn hóa nghìn năm Kinh Bắc, là thi sĩ của đất quan họ, chẳng khác thi sĩ Tây Ban Nha Federico Garcia Lorca với quê hương Andalusia qua những khúc cante hondo (trầm ca) và romance.

Nhưng cũng phải nhận rằng, Về Kinh Bắc in đậm vào dư luận và sống trong lòng công chúng phần nhiều ở chùm thơ đặc biệt trong nhịp Năm: bộ ba Cây, Lá, Quả (Cây Tam cúc, lá Diêu bông, Quả vườn ổi), mở rộng là bộ bốn (Cây, Lá, Quả, Cỏ – Cỏ Bồng thi). Không nói tới việc số phận đoạn trường của chùm thơ này kéo theo số phận đoạn trường của tác giả đã góp phần không nhỏ làm cho chúng nổi tiếng và được yêu mến, “đến hôm nay, thoát khỏi mọi vướng víu thời cuộc, bộ ba cây-lá-quả vẫn cứ ngây ngây men erotic của những ẩn ức ấu thơ sực mùi ổ rơm tóc ấm trộn với một liều lượng đắng cay của tuổi trẻ thất vọng đượm một nỗi u ẩn thế sự, vẫn nguyên sức cám dỗ của thứ rượu lâu năm nhấp môi thì ngọt, nuốt vào thì đắng, uống rồi thì chuếnh choáng ngậm ngùi.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991).

Ngoài chùm thơ trên, có Về với ta, một bài làm thanh cả nhịp cuối, nhịp kết của tập thơ. Không nổi tiếng với công chúng rộng, nhưng bài thơ được đánh giá cao trong giới bạn thơ của tác giả và cũng là một trong những bài tâm đắc nhất của ông. Tôi nghĩ bài này chứa đựng những gì là Hoàng Cầm nhất.

Về mặt thi pháp, thực ra Về Kinh Bắc chưa tạo dựng một thi pháp nhất quán rõ rệt như ở Trần Dần, Lê Đạt, nhưng nó rất riêng một lối thơ Hoàng Cầm của thời kỳ này, cũng là lối thơ Hoàng Cầm nhất.

Trước tiên là một nhạc điệu Hoàng Cầm: dặt dìu, đón đưa, dan díu, buông bắt. Có thể nhận ra tất cả hồn quan họ ngân nga trong ấy. Thứ nhạc này khiến cho thơ tự do không vần của tác giả, trong khi theo sát diễn biến của từng tâm trạng cụ thể, thậm chí còn du dương hơn lối thơ vần điệu (cuối đời tác giả hay tự hát thơ của mình trong những cuộc gặp gỡ bỏ túi). Ta có thể gọi nó là “điệu tâm hồn Hoàng Cầm”.

Rất rõ một lối tạo hình Hoàng Cầm: xen tả với gợi, xen ấn tượng, biểu tượng với khắc hằn xuất biểu. Ở những bài thành công nhất, việc sử dụng biểu tượng gửi gắm những tâm ý không nói ra được (có thể là “tàn dư” của thủ pháp “biểu tượng hai mặt” thời Nhân Văn – Giai Phẩm nhưng đã từ tầng lý trí chìm xuống tầng sâu tiềm thức, bộc phát, nên sức ám ảnh rất cao), kết với sức gợi và ám của nhạc thơ, cho ta một Hoàng Cầm của thi pháp tượng trưng thời mới – tôi tạm gọi là “tân tượng trưng”.

Hoàng Cầm cũng có một kiểu dắt dẫn tuyến thơ: Một cách mở đầu hầu như bao giờ cũng tự phát từ sự mách bảo của tiềm thức, bản năng, không từ sự lập ý (cho nên ông hay nói về tiếng người trong đêm đọc câu thơ mở đầu cho bài thơ của mình), rồi phát triển bài thơ xen kể với tả, và cấu trúc bài thơ không bao giờ thiếu kịch tính.

Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm tài hoa óng chuốt bay bướm nhưng vẫn tự nhiên, tuy cũng có những lúc hơi lạm phát vàng son song ít khi rơi xuống sáo mòn.

Có một nét rất riêng Hoàng Cầm nữa: sự tạo dáng ký thác tâm trạng trong các bài thơ. Ngay từ Bên kia sông Đuống, cái dáng nghiêng nghiêng của con sông đã ám ảnh bao nhiêu người yêu thơ ông (có nhà nghiên cứu còn ngây thơ thử đi đo độ nghiêng của sông Đuống thực!). Trong một lần chở xe đạp nhà thơ trên phố dịp ông vào Sài Gòn lần đầu, tôi bỗng “phát hiện” cái thế nghiêng nghiêng của con sông có lẽ là từ cái dáng nằm nghiêng nghiêng của chính tác giả trong cai đêm trằn trọc nhớ về con sông quê sa vào tay giặc. Cái dáng này cũng như tiên cảm sự chông chênh của đời ông! (Đứng không yên ổn, ngồi không vững vàng – Kiều). Trong Về Kinh Bắc, ta gặp cái dáng bơ vơ Em đứng nhìn theo em gọi đôi, lạc lõng Từ đấy em đi khắp sông khắp núi/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu bông hời… ới diêu bông, lủi thủi Lẽo đẽo em đi vườn mai sau/ Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng, bị du đưa như trong cơn mộng du Chị đưa em đến chốn này/ Cheo leo mỏm đá, chết đứng không trói mà không đi… em vọng ai đâu mà hóa đá… kìa rau muống dại kín em rồi…

Bao trùm tất cả, Về Kinh Bắc dựng lên một không khí, một thế giới Hoàng Cầm. “Thế giới thơ Hoàng Cầm như một cõi mơ giữ nguyên những cái không hề có thật, cái “lá diêu bông” là cái lá gì, “cầu bà Sấm bến cô Mưa” là ở đâu, nhưng cứ ngỡ như là thật; có những chất liệu bình dị của vùng quê Kinh Bắc một thời vừa đủ xa để nhớ tiếc, cỗ bài tam cúc đôi cá đòng đong… nhưng lại kết thành hư ảo hàm chứa một cái gì bí ẩn. Hoàng Cầm thuộc nòi thi sĩ giao tiếp được với người âm, biết cách gọi về những gì đã mất, đẩy cái trước mắt ra xa vời, nên thơ anh ám ảnh như mộng triệu đòi được giải mã.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991). (Tác giả rất tâm đắc ý cuối này, ông lấy nó khi viết Chân dung tự thú năm 1994: “Gọi chiều xưa trở lại/ Đẩy chiều nay về xa/ Thường trò chuyện với ma/ Như với người đang sống”).

Về Kinh Bắc là tập thơ được Hoàng Cầm sáng tác trong mùa Đông-Xuân 1959-1960 tại nhà riêng (43 Lý Quốc Sư Hà Nội), sau khi ông bị kỷ luật vì vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Bản thảo sau đó được ông chép tặng một số rất ít người quý mến mà số lượng ngày càng tăng dần, nhất là sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Tuy có tiếng xì xầm về những “ẩn ý” oán trách xã hội của một số bài trong đó, nhất là bài Lá Diêu bông, nhưng chưa hề có nhận định hay kết luận chính thức nào của các cơ quan hữu trách về tập thơ, cũng chưa hề có một quyết định nào không cho phép lưu truyền nó. Nhưng đến khoảng cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, khi một số bài thơ do Hoàng Cầm chép tặng được truyền ra hải ngoại, thì Về Kinh Bắc đã “thành vấn đề” đối với “các cơ quan chức năng”.

Năm 1982, một nhà văn người Việt từ Canada về xin nhà thơ chép tặng toàn bộ tập thơ để mang đi. Cùng lúc đó, tình cờ tôi từ Sài Gòn ra, cũng xin ông chép tặng để mang vào. Trong bối cảnh ấy vụ án Về Kinh Bắc ra đời với mục tiêu phá vỡ từ trong trứng một âm mưu “lưu truyền văn hóa phẩm phản động”.

Tháng 8 năm 1982, tôi – người mang tập bản thảo do Hoàng Cầm chép tặng với phụ bản tranh của họa sĩ Bùi Xuân Phái và bìa của nhạc sĩ Văn Cao – bị bắt, ngay sau đó là tác giả của nó.

Trong quá trình điều tra, vì quá yếu mệt, để mong sớm được ra, nhà thơ đã nhanh chóng nhận tội nói xấu chế độ qua một số bài thơ trong tập và ông tỏ lòng ăn năn hối lỗi. Điều trớ trêu là, sau khi có lá thư thỉnh nguyện của một số trí thức Pháp gửi về xin trả tự do cho nhà thơ, ông lại bị kéo dài thời gian giam giữ.  Ông được “tạm tha” sau 16 tháng “giam cứu” (giam giữ để điểu tra) tại Hỏa Lò (nhà tạm giam Hà Nội) và Trại tạm giam của Bộ Nội vụ – từ cuối tháng 8 năm 1982 đến cuối tháng 12 năm 1983.

Thời gian bị giam giữ đã ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe tinh thần của Hoàng Cầm. Phải đến hàng năm sau, nhờ sự động viên của bạn bè, ông mới dần hồi phục.

Sau Đổi Mới, một số bài trong Về Kinh Bắc được công bố trong vài tập thơ của Hoàng Cầm (Mưa Thuận Thành, Lá Diêu bông, Bên kia sông Đuống), trong đó có những bài quan trọng nhất mà dăm năm trước đây còn bị coi là “phản động”. Đến năm 1994 thì Về Kinh Bắc được xuất bản. Trong giải thưởng Nhà nước về VHNT trao cho Hoàng Cầm năm 2007, tuy Về Kinh Bắc không được nêu danh, nhưng có những tập thơ kể trên.

Sau Về Kinh Bắc, thơ Hoàng Cầm không còn tập trung được sức mạnh vào một tác phẩm lớn, không còn giữ được nhạc điệu rất riêng, nhưng thế giới thơ Hoàng Cầm vẫn hiện diện một phần ở tâm trạng tải trên hàng trăm bài thơ lẻ. Một tâm trạng tha thiết đòi yêu, níu yêu, không cam chịu, nhưng không giấu được tiếng thở hắt phẫn chí, ngậm đắng, nuốt cay: Gió cấp ba thổi méo thân hình… Vào tim dao khía bịa ra cười… Thứ thuốc mà ông mang tên càng già càng đắng.

Cuộc đời và thi nghiệp của Hoàng Cầm là một trường hợp điển hình cho điều mà tôi coi là một trong những “bí quyết” thành công trong văn giới Việt Nam đương đại. Đó là sự “nằm giữa”. Nằm giữa con người thi nhân và con người chiến sĩ (dân tộc và dân chủ), con người Hoàng Cầm là một mẫu lý tưởng ngấm ngầm cho một bộ phận trí thức văn nghệ sĩ; thất bại trong cuộc đời tranh đấu phủ thêm hào quang cho thi nghiệp của ông. Nằm giữa lối sáng tác truyền thống coi cảm hứng từ chính cuộc đời mình là động lực tự nhiên với ý thức về sự làm mới bút pháp do ảnh hưởng của những người bạn mang tinh thần cách tân quyết liệt. Nằm giữa một cái nôi văn hóa dân gian đậm đà tâm thức tập thể và một chân trời tự do cá nhân hấp thụ từ văn minh phương Tây. Nằm giữa kể chuyện và giãi lòng. Nằm giữa thực và mộng, lộ và ẩn, hình ảnh và biểu tượng, huyền thoại và chuyện thật, văn chương và thế sự. Thơ Hoàng Cầm dễ lan truyền mà không bình dân, đáp ứng tâm lý thưởng thức của công chúng trung lưu Việt Nam trong một hoàn cảnh xã hội khá đặc biệt, khi văn nghệ đang chuyển mình từ công cụ chính trị trở lại là chính nó; trong cảnh tranh tối tranh sáng, tiếng xì xào lắm khi còn mạnh hơn lời bình chính thức.

Ngẫm lại một đời thơ ông, tôi thấy ngay từ thưở 20 đến khi về cõi, ông như không thôi bị ám ảnh bởi cái nhu cầu nội tâm sâu xa đọng trong một chữ NÍU.

Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh

Bao nhiêu tha thiết hàm chứa cái gì bất lực, tội nghiệp trong câu thơ từ 70 năm cũ dự cảm một điều quý báu nhất sắp vuột khỏi tay.
Đời ông là cả một đời nhớ tiếc những cái đã mất ấy (“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ sao xót xa như rụng bàn tay”), mà ông chỉ hòng mong níu lại bằng thơ. Níu xuân xanh. Níu một mối tình ảo,níu một thời trầu cay mà đỏ, níu màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp… Và có lẽ, thơ Hoàng Cầm níu lòng ta cũng vì thế./.

Bán đảo Tân Phong mùa trăng tháng 3/2011.
Hoàng Hưng

One thought on “Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc – Thơ Hoàng Cầm

  1. Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
    Đi mãi tìm sim chẳng chín
    Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
    Gặm cỏ mưa phùn
    Dóng dả gọi về đồng sương
    Đôi ba người lận đận
    Đêm nay mẹ chẳng về chuồng

    Ta con chào mào khát nước
    Về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm
    Cây ổi giơ xương
    Chống đỡ mùa đông xập về
    Đánh úp
    Ô này tám đỏ ra hoa

    Ta con chim cu
    Về gù dặng tre
    Đưa nắng ấu thơ
    Về sân đất trắng
    Đưa mây lành những phương trời lạ
    Về tụ nóc cây rơm
    Ta ru em
    Lớn lên em đừng tìm mẹ
    Phía cơn mưa

    Ta con phù du ao trời chật chội
    Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
    Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
    Vừa rụng chiều nay
    Dềnh mặt nước hương sen
    Ta soi
    Chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
    Ngủ say rồi
    Đôi cá đòng đong

Leave a Reply