Từ Điển Phương Ngữ Huế – Trần Ngọc Bảo

Sept 18, 2017 (TM)

Tôi gởi vào đây toàn bộ cuốn từ điển tiếng Huế của một người bạn học thời Đại Học Văn Khoa Huế của tôi. Cuốn từ điễn biên khảo công phu và đầy đủ những phương ngữ rất đặc thù của Huế.

Cám ơn Bảo đã gởi cho khungcuahep cuốn sách rất giá trị và có ý nghĩa này.  Có nhiều ý niệm được giải thích rõ nguồn gốc đính kèm thơ và ca dao.

Ví dụ định nghĩa của Hò giã gạo và Hò mái đẩy, và tôi trích :

Hò Giã Gạo: loại hò đi với công việc giã gạo. Đến lúc hết gạo người ta vẫn còn hứng thú hát hò cho nên thường ở lại để qua lời hát trao đổi ân tình hoặc chọc ghẹo nhau. Do đó phát sinh hai hình thức hò giã gạo là hò đâm bắt (trêu chọc) và hò ân tình. Về sau người ta tổ chức thi hò đối đáp. Thường thì một cối giã người ta cho một cặp nam nữ giã và hò. Cũng có thể có hai cặp hay ba cặp.

Sau câu hò chào, hò mờihò đối đáp, còn gọi là hò vay trả hay hò đâm bắt:

Nữ: Ơ…hơ Cây chi trên rừng không la,

            Cá chi dưới biển không xương.

            Trai nam nhơn đối đặng, thiếp xin kết nghĩa tào khương với cùng.

Nam: Ơ…hơ Cây xương rồng trên rừng không lá,

            Cá sứa dưới biển không xương.

            Anh đà đối đặng, em phải kết nghĩa cương thường với anh.

Nam: Thùng bánh nhiều răng em kêu thùng bánh ít?

            Quả trầu đầy răng em bảo quả trầu không?

            Ai xui em ăn ở hai lòng,

            Nói xuôi cũng được mà nói ngược dòng cũng hay.

Nữ: Đá không chưn, răng anh gọi là đá nhảy?

            Cát không miệng, răng anh bảo cát gầm?

            Ở xa không biết nên lầm,

            Khoai lang xắt lát em cứ ngỡ sâm bên tàu. (hò đâm bắt)

Sau những câu đố, trêu chọc thử tài, dần dần phát sinh tình cảm nên cuối cùng là hát hò ân tình

Nữ xướng: Hơ hơ hơ khoan mời bạn ta lại hò khoan.

Nam xô : Hơ hơ hơ …hơ

Nữ xướng: Hơ.. hơ Thiếp gặp chàng như rồng mây kia mà gặp hội,

            Chàng mà gặp thiếp như chim phụng hoàng mà gặp cội ngô với cành ngô.

Nam xô : Hơ hơ hơ …hơ

Nữ xướng: Mấy lâu ni kẻ Hán người Hồ,

            Bữa ni thiên tri lý ngộ, quyết phân phô cho tận tình.

Nam xô: Hơ hơ hơ …hơ

Cuối cùng buổi hò là hò từ tạ

            Nữ: Ơ hơCon sao hôm đã lặn,

Con sao mai đã mọc bên tê tề.

            Anh ơi anh có điều chi phân đi nói lại cho em về kẻo khuya.

Nam:

Mình về răng được mà ve,

            Câu thơ chưa gởi, lời thề chưa trao.

Hò Mái Nhì : Loại hò gắn với nhịp điệu chèo đò chậm rãi khi thuyền trôi theo dòng. Lúc này có hai người chèo cho nên có thể vừa chèo vừa hát nhẹ nhàng. Phần ơ hò được kéo dài, và ca từ được lặp lại.

Hơ…hơ …hơ…à…hơ… Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,

            Đò về Vỹ Dạ thẳng ngã ba Sình ơ… ơ…

            Hơ…hơ …hơ…à…hơ…Đoái nhìn sông Hương nước chảy xinh xinh,

            Rứa chừ sông bao nhiêu nước à ơ…ơ..ơ

            Hơ…hơ …hơ…à…hơ.. sông bao nhiêu nước dạ em si tình nhiêu với chừ ừ…ư…ơ…ơ… bấy nhiêu ờ…ờ…ờ…

            (lời khuyết danh)

Biết đâu là cầu Ô Thước,

            Mênh mông nguyện ước dưới nước trên trờ.i

            Đêm khuya ngớt tạnh mù khơi,

            Khúc sông quạnh vắng có người sầu riêng.

(lời của Ưng Bình Thúc Giạ)

Loại hò này có thể hát chung, có xướng, có xô hai lần

Hò cái xướng:

Hơ hơ hơ hơ ơ hời Trước bến hơ hơ hơ hơ hơ hơ hơ hơ Văn Lâu chiều hà ha hơ chiều hơ hư

Hò con xô:

Hơ hơ hơ hơ hơ hơ…hơ

Hò cái:

Chiều chiều trước bến Văn Lâu ai ngồi, ai câu, sai sầu, ai thảm,

            Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông, hơ hơ hơ hơ hơ hơ…

Thuyền ai thấp thoáng bên sông, lại đưa câu thì mái đẩy hà hy

Hơ hơ hơ hơ mái đẩy nên cho chạnh tấm ha hơ lòng

Hò con:

Hơ hơ hơ hơ hơ hơ ơ hơ hơ hơ ơ hơ hơ hơ…

Hò cái:

Chạnh lòng non nướcnon hơ hơ hà hơ

            (lời Ưng Bình Thúc Giạ)

Ở Quảng Bình cũng có hò mái nhì nhưng làn điệu có khác vì cao độ của âm giai ngũ cung có khác. Người Quảng Bình hát theo ngũ cung đúng, còn người Huế hát theo ngũ cung hơi nam, giọng ai. Đây là điệu hò thể hiện phong cách ngọt ngào, duyên dáng, tình cảm sâu lắng nhất của người Huế.

Tống Mai
Virginia – Sept 18, 2017

 

Từ Điển Phương Ngữ Huế
Trần Ngọc Bảo

Xin bấm vào link dưới để xem:

Từ Điển Phương Ngữ Huế – Trần Ngọc Bảo

 

Cầu Ngói Thanh Toàn – Huế

 

Lời nói đầu

Từ Điển Phương Ngữ Huế là phần trích ra và có bổ sung của cuốn Từ Điển Ngôn Ngữ, Văn Hóa, Du Lịch Huế Xưa xuất bản năm 2005. Lần xuất bản trước tác giả dùng chữ Ngôn Ngữ, nhưng nay thay bằng Phương Ngữ để nêu rõ hơn tính chất địa phương của các từ ngữ. Thứ nữa, trong lần xuất bản trước, do nhận thấy rằng một số các từ ngữ ấy đã không còn được sử dụng một cách rộng rãi nên tác giả dung chữ Huế Xưa. Tuy nhiên, nhiều độc giả góp ý rằng di sản ngôn ngữ này vẫn còn tồn tại bàng bạc trong đời sống của người Huế hiện nay cho nên đề nghị gác lại chữ Xưa. Dù còn hay mất, các di sản cũng cần được bảo tồn bằng cách này hay cách khác để thế hệ đi sau hiểu được thế hệ đi trước, để người Huế hiểu chính nền văn hóa của mình cũng như tính cách rất riêng của con người xứ Huế thuở xưa nhằm phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong chính mình – đó là mục đích của cuốn từ điển này.

Về mặt ngôn ngữ tác giả xin phép được xác định địa bàn của phương ngữ Huế là toàn bộ tỉnh Thừa Thiên-Huế. Phương ngữ ấy thường được gọi là tiếng Huế vì từ lâu (có lẽ từ thế kỷ 16) chữ Huế chỉ cho cả vùng đất Thuận Hóa. Những người trong tỉnh Thừa Thiên-Huế cho dù sinh ra trong thành nội hay ở vùng biển Thuận An, ở huyện Hương Trà hay huyện Phú Vang – nhất là khi đi xa – đều nói rằng quê mình là ở Huế và tiếng mình đang nói là tiếng Huế. Trên thực tế ngày nay phương ngữ Huế được sử dụng ở các miền quê nhiều hơn là trong thành phố vì ở thành phố do có sự giao lưu mạnh mẽ với người dân từ nhiều tỉnh, thành phố khác, người ta có xu hướng sử dụng tiếng nói toàn dân nhiều hơn. Nhưng nếu phương ngữ hoàn toàn bị lãng quên thì sẽ có sự gián đoạn với nguồn mạch văn hóa, với thế hệ cha ông vì thực ra tiếng Huế hiện nay (và tiếng nói ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị) còn lưu giữ rất nhiều từ vựng và yếu tố ngữ âm của tiếng Việt cổ có từ cách đây hơn 2000 năm. Do đó sưu tập lại từ ngữ địa phương cũng góp phần xây cầu nối giữa các thế hệ, làm sáng tỏ một phần lịch sữ ngôn ngữ tiếng Việt và cả lịch sử dân tộc Việt.

Về lịch sử thì phương ngữ Thừa Thiên-Huế phát triển từ tiếng nói của những người ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh di cư vào đất Thuận Hóa để tiếp nhận miền đất mà vua Chiêm Thành là Chế Mân dâng vua nhà Trần làm sính lễ để cưới Công Chúa Huyền Trân năm 1306. Đến vùng đất mới những lưu dân ngoài vốn từ có sẵn phải sáng tạo thêm từ ngữ mới, đồng thời tiếp thu một số ảnh hưởng từ các dân tộc đã sinh sống ở đây từ trước như người Chàm, và các dân tộc thiểu số khác. Ngoài ra do hoàn cảnh lịch sử bị chia cắt trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh (khoảng 200 năm), và chia cắt hai miền Nam Bắc từ 1954 đến 1975 phương ngữ Huế có khác nhiều so với phương ngữ của vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh.

Về cách phát âm thì tiếng Huế khác với tiếng nói của vùng Quảng Trị trở ra các tỉnh phía Bắc chủ yếu ở phụ âm cuối [n] và [ng] cũng như phụ âm cuối [c] và [t] – người Huế phát âm chữ bàn và bàng như nhau, chữ bắc và bắt không khác nhau. Những người ở Bắc Bộ cho đến Quảng Trị phân biệt rất rõ những cặp phụ âm này. Dĩ nhiên cũng còn những biến âm từ những âm trong ngôn ngữ toàn dân rất đặc trưng của tiếng Huế và sẽ được nêu cụ thể trong các mục từ. Tuy giọng nói có khác nhau giữa vùng Thừa Thiên với Quảng Trị hay với Quảng Nam nhưng từ vựng thì giữa các vùng này giống nhau khá nhiều do sự giao lưu giữa những vùng địa lý gần gũi.

Cuốn từ điển này cố gắng ghi nhận các ảnh hưởng do sự giao lưu với các vùng phương ngữ xa nhau như phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ Nam Bộ. Do đó khi có từ nào giống với phương ngữ Bắc Bộ thì ghi là (+B) và từ nào giống với phương ngữ Nam Bộ thì ghi là (+N). Trong phần giải thích tác giả dùng từ và ngữ toàn dân, nhưng cũng cung cấp từ ngữ tương đương thuộc phương ngữ Bắc và ghi là (B), hay thuộc phương ngữ Nam và ghi là (N) như là một cách đối chiếu giữa các vùng phương ngữ để giúp cho các nhà ngôn ngữ học có thêm dữ liệu về quá trình phát triển tiếng Việt. Tác giả cũng phát hiện ra rằng người Huế và người miền Nam cùng chia sẻ với nhau một số lượng từ và ngữ rất lớn mà ngay cả một số tác giả làm từ điển phương ngữ của từng miền đôi khi cứ tưởng là tài sản riêng của địa phương mình.

Ở mỗi mục từ ngoài phần giải nghĩa và thí dụ còn có thông tin về ngữ âm, ngữ pháp và cách sử dụng. Nếu một từ nào đó là biến thể ngữ âm của một từ khác thông dụng hơn thì có ghi chú là biến âm. Mỗi từ đều được ghi chú từ lọai, có thể có từ nguyên, vị trí của từ đó trong một câu, nghĩa bóng hoặc hàm ý về ngữ nghĩa. Nếu từ ấy là tiếng lóng hoặc thuật ngữ của một chuyên ngành như kiến trúc, mỹ thuật, hoặc dùng trong cung đình thì đều ghi chú trong dấu ngoặc đơn. Các thổ ngữ, là từ lưu hành trong một địa phương hẹp thì ghi rõ tên vùng thổ ngữ ấy. Một số từ chỉ động và thực vật nếu có sự khác biệt giữa các phương ngữ sẽ có tên khoa học. Đối với các từ chỉ công cụ lao động thì hình vẽ được dùng để minh họa.

Cuốn từ điển này cũng dành cho những người gốc Huế vì nó nhắc lại cho họ những ngày xưa êm đềm, đưa họ về với những khúc đồng dao, các trò chơi thời thơ ấu, các bài hò đối đáp, mái nhì, mái đẩy của tuổi thanh niên, các thú đổ bác như bài tới, bài chòi, đổ xăm hường ngày tết. Rất nhiều thí dụ là những điệu hò, những câu ca dao, tục ngữ giúp độc giả biết được các tâm sự cũng như nếp tư duy của người xưa. Nhưng dĩ nhiên nó cũng dành cho thế hệ trẻ vì có lẽ họ cần một cuốn sách tham khảo để hiểu cho hết những bài hát, câu hò và cả những lời nói hằng ngày của ông cha.

Những từ về quan chế chỉ nhắc đến những từ có liên quan đến triều Nguyễn và giúp hiểu một số phưong diện nào đó của văn hóa Huế. Những từ trong một lĩnh vực chuyên ngành nào đó như âm nhạc, mỹ thuật, v.v. chỉ ở trong phạm vi kiến thức phổ thông.

Ngôn ngữ hay văn hóa Huế là những khái niệm có nội hàm rất rộng mà mỗi người sống trong nền văn hóa ấy chỉ tiếp nhận một phần, và phần ý thức hay hiểu rõ về nền văn hóa ấy lại càng ít hơn. Do đó dù có tìm tòi, khảo cứu công phu bao nhiêu đi nữa vẫn có thiếu sót. Tác giả rất mong các nhà nghiên cứu, các thân hữu và người đồng hương xứ Huế thông cảm và góp ý để công trình này tiếp tục được hoàn thiện.

Trân trọng,
Trần Ngọc Bảo
Huế – Tháng Chín 2017

Hướng dẫn sử dụng

  1. Các mục từ được trình bày theo thứ tự chữ cái A, Ă, Â, B, C, D , Đ, E, Ê, G, H, I, K, L M , N, O, Ô, Ơ, P, Q, R , T, U, Ư, V, X, và Y. Về dấu giọng thì trước hết là từ không dấu, tiếp đến là dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng .
  2. Mỗi mục từ ngôn ngữ có bốn thành phần chính: mục từ (được in đậm); đối chiếu với phương ngữ Bắc và Nam (nếu từ ấy cũng có trong phương ngữ Bắc thì ghi là +B, nếu từ ấy có một từ tương đương trong phương ngữ Bắc thì ghi là B, tương tự, ghi là +N nếu từ ấy cũng có trong phương ngữ Nam hoặc ghi là N những từ tương đương trong phương ngữ Nam); từ lọai (viết tắt và in nghiêng); định nghĩa hoặc giải thích (in đứng); các thí dụ (in nghiêng) (nếu thí dụ là ca dao, tục ngữ, câu hò thì có ghi rõ trong dấu ngoặc đơn).

bể (+N) đgt vỡ (B).

Con mèo nhảy bể nồi rang,

Con chó chạy lại chó mang lấy đòn. (ca dao)

  1. Ngòai ra mỗi mục từ còn có các thành phần phụ như lĩnh vực sử dụng từ (động vật, thực vật, âm nhạc, mỹ thuật, nghề đúc đồng, v.v. ghi trong ngoặc đơn), ngữ âm (nếu từ ấy là biến thể ngữ âm của một từ khác thông dụng hơn thì ghi là biến âm trong ngoặc đơn rồi đến từ thông dụng ấy); cú pháp (chua thêm vị trí của từ là ở đầu câu hay cuối câu trong ngoặc đơn); thổ ngữ (nếu từ chỉ được vùng trong một vùng hẹp thì ghi rõ tên của vùng ấy). Các thí dụ được in nghiêng và có thể có lời giải thêm về thí dụ ấy được in đứng.

a rứa pht (dùng ở cuối câu) lắm; ghê. Ba ơi, mạ đi chợ mua nhiều kẹo cau a rứa!

đào dt (thv) quả roi; quả gioi (B); trái mận (N)

đưới gt (biến âm) dưới. Tui ở đưới quê mới lên côi ni mấy bựa: Tôi ở dưới quê mới lên trên này mấy bữa

âm iu tt (vùng An Truyền) âm u. Tời bữa ni âm iu e độn ha nê: Trời bữa nay âm u e rằng biển động.

  1. Nếu từ có nhiều nghĩa thì các nghĩa được đánh dấu bằng số 1., 2. Nhưng nếu từ chuyển lọai, nghĩa là có khi nó là danh từ nhưng trường hợp khác nó là động từ thì xuống dòng và ghi từ lọai cùng các thành phần thông thường của mục từ.

bo đgt 1. (biến âm) vo (gạo). Bo gạo nấu cơm cho rồi con, trưa rồi đó. 2. gội (đầu). Tao đi bo cái trốt cái đã, ngứa quá rồi. 3. xắn. Chỗ ni nước su, bo quần lên mà lội.

bọp đgt bóp. Lựa hàng thì rờ là được rồi; đừng có bọp, hư của tui hết.

dt (động vật) một lọai sò rất to, màu trắng, đường kính 8-10 cm.

  1. Khi từ giống nghĩa với từ đã nêu thì ghi là Nh và tiếp đó là từ đồng nghĩa. Khi một từ có liên quan có liên quan đến một từ khác thì ghi là X có nghĩa là xem thêm mục từ được ghi tiếp đó.

bổ cái thịch Nh bổ cái ọach

cống sinh dt một trong ba lọai học sinh của trường Quốc Tử Giám. Những người này đã đỗ cử nhân ở kỳ thi hương ở địa phương, nay vào học để chuẩn bị thi hội ở kinh đô. X ấm sinh, tôn sinh, Quốc Tử Giám

  1. Các từ viết tắt

B      Bắc Bộ                         Nh    như

dt      danh từ                        pht    phụ từ

đgt    động từ                        đt      đại từ

đv     động vật                      tht     thán từ

lt       liên từ                          thv    thực vật

tt       tính từ                         trgt    trạng từ

N      Nam Bộ                       trt    trợ từ

ng     ngữ                              X      xem thêm

8 thoughts on “Từ Điển Phương Ngữ Huế – Trần Ngọc Bảo

  1. Thks Mai đã đưa lên blog. Thks tác giả TNB đã soạn cuốn sách này rất công phu.
    Mình đang đọc một cách thích thú đây, nhất là những câu ví dụ rặt Huế, những câu ca dao hay hò làm nhớ lại ngày xưa thường nghe mạ nói.
    Đang đọc đến chữ “béo bạo” rồi coai ngược lại thì không thấy chữ “bạo” ở vần “b”. Đề nghị nên thêm chữ “bạo” như là một entry word.

  2. Đọc tới mô góp ý tới đó:
    Thêm một ví dụ cho chữ “bét” với nghĩa có thể hơi khác: Sáng bét (mắt) rồi mà còn ngủ nướng.

  3. Chữ “hành” từ chữ “hành hạ” không phải là chữ của Huế nhưng hình như câu “hành ra xương ra da” là Huế ???

  4. Chữ “bùi” trong sách này nghĩa là “vùi” nhưng hình như tiếng Huế có chữ “lùi” cũng có nghĩa tương tự (lùi khoai trong tro nóng). Ngoài ra chữ “bùi” còn có nghĩa vị béo nữa (béo bùi) hoặc “ngọt ngào” như “nghe bùi lổ tai”.

  5. Cám ơn Tùng rất nhiều về những ý kiến đóng góp “nóng sốt”
    Mình sẽ xem xét lại chữ “bạo”, “bét”, và ngữ “hành ra xương ra da”.
    Riêng chữ “lùi” với nghĩa nướng bằng cách vùi trong tro, và “bùi” với nghĩa béo là những từ phổ thông hay còn được gọi là từ toàn dân (có trong từ điển tiếng Viêt, loại phổ thông)

  6. Rất hoan nghênh Trần Ngọc Bảo đã bỏ công làm Tự Điển rất công phu này, thật đáng quý cho người Huế mình, cám ơn bạn nhiều.

    Sau khi đọc qua mình có một chút suy nghĩ xin góp:

    Nên xem xét thêm về trình bày cho người xem dễ dùng hơn và thêm những Références để xác minh độ tin cậy, chính xác của các từ ngữ trong tự điển.

    Một số đồ vật, cây, trái … nói chung chỉ nên đưa vào tên gọi riêng ở Huế, ví dụ: Hải Đường, Thu đủ, Thầu đâu…, nhưng Ngô Đồng, Phương vỹ … là chung cho các miền.

    Một số từ ý nghĩa sẽ khác khi ghép lại, ví dụ: ngụy, ngụy tặc, hiện ngụy (bữa ni răng mà hiện ngụy rứa không biết) có nghĩa khác thường…/ Hồi nớ # Hồi tê không giống nhau như trong tự điển / Hoang: chơi hoang # chuyện hoang /Mo -> mo cau, cơm mo, bó mo, mặt mo…

    Mình cũng chưa tìm ra (có thể đâu đó) chữ: nhớp: không sạch / quách: (làm quách cho xong), hay cái quách? / ri nì: thế này (?) / cốt: miễn sao (ăng cốt no) / ba de: du đảng, hoang tàn (?) / cái nịt (?) / món nộm : gỏi trộn…

    Có nên đưa vào một số địa danh Huế (đã sống một thời, nay không còn) có thể không biết tìm hiểu ở đâu. Ví dụ: Bến đò Thừa Phủ, bến Trưởng Hề, chợ Xép, Chợ Cống, Chợ Dinh, Mậu Tài, cầu Thứ Bảy, xóm Vạn Vạn, Kho Rèn, Phường Đúc, Chè Cồn, Hàng Đoát ….

    Một số ý kiến, có thì giờ sẽ xem kỹ hơn, rất mong được thấy Tự điển này ngày càng phong phú. Chúc Bảo nhiều thành công trong công việc.

  7. Cám ơn NH về những ý kiến đóng góp và lời chúc tốt đẹp. Mình sẽ trả lời vài điểm sau. Riêng phần địa danh hay di tích cũng đã được soạn trong một cuốn từ điển khác. Nếu nhiều bạn bè muốn xem thì một thời gian nữa mình sẽ đưa lên . Dĩ nhiên là sẽ không đầy đủ.

  8. Về reference, phải chăng NH muốn nói là câu thí dụ cần ghi là được trích từ tác phẩm nào, của nhà văn nào? Quả thật, những thí dụ về phương ngữ chỉ đến từ ba nguồn: một là các câu ca dao, điệu lý, điệu hò, ca Huế; thứ hai là trong ký ức – đó là những câu nói mình nghe ba, mẹ, những người thân nói; thứ ba là đi thực tế mình nghe những người xung quanh nói, nhất là những người ở miền quê. Các nhà văn , nhà thơ, nhà nhặc gốc Huế lại hiếm khi dùng từ địa phương trong các tác phẩm của họ. Chẳng hạn, Trịnh Công Sơn, không thể tìm ra một từ địa phương hay địa danh Huế nào trong các bài hát. Cho nên trong từ điển chỉ ghi trong ngoặc đơn là (ca dao), (hò), v.v. không có tên tác giả.
    Cây “phượng vỹ” ở trong Nam gọi là cây “điệp”, cho nên phải đưa từ này vào. Cây “ngô đồng” (xem tên khoa học) trồng ở sau lưng điện Thái Hòa chỉ có ở Huế. Theo một giai thoại, vua bên Tàu tặng vua Minh Mạng một cây ngô đồng (theo truyền thuyết, chim phượng hoàng hiếm khi xuất hiện. Khi xuất hiện nó chỉ đậu trên cây ngô đồng. Vua Minh Mạng cho lính cầm lá cây đi tìm khắp núi rừng Thừa Thiên xem đất nước mình có cây này không. Người ta tìm ra một cây tương tự ở Bạch Mã. Và đó là cây còn sống cho tới ngày nay. Gần đây người ta đã nhân giống này ra một số nơi ở Huế như trong cửa Quảng Đức, bên ngoài cửa ChươngĐức, công viên Tứ Tượng (đối diện Morin), v.v. Ờ Thảo Cầm Viên Sài gòn, người ta cũng đã nhân giống cây này thành công. Những miền khác cũng có tên “ngô đồng” nhưng chỉ một loài cây khác, như cây “vông đồng”, cây “độc bình”.
    Chữ “ba de” có nguồn gốc tiếng Pháp là “paniere” là cái giỏ lớn, trong Nam gọi là “cần xé”. “Đồ ba de” cũng giống như “đồ đội rỗ” chỉ những người khuân vác và tư cách, ngôn ngữ của họ. Chữ “nhớp”, “quách”, “nịt”, ” cốt” là những từ toàn dân hay từ phổ thông. Chữ “ri nì” có hai yếu tố “ri” và “nì” đều có trong cuốn từ điển Huế (không có “ri nì” vì không cần thiết, hiểu “ri” và “nì” thì hiểu “ri nì”
    Một cuốn từ điển địa danh không thể đầy đủ vì ở Thừa Thiên có hàng trăm ngôi làng, hàng ngàn thôn, xóm xuất hiện vào các thời điểm khác nhau, có thể mang nhiều tên khác nhau. Di tích cũng có hàng trăm nhưng đã thành phế tích hoặc không còn dấu vết trên thực địa.
    HƠn nữa làm từ điển thường phải có nhiều người và có nguồn kinh phí. TNB chỉ có một mình. Kinh phí eo hẹp. đi thực tế về các làng mạc đã là một vấn đề rồi. Cho nên mong NH và các bạn thông cảm: tác phẩm không hoàn hảo, cần sự đóng góp ý kiến của các bạn.

Leave a Reply