Tâm Kinh – Tống Mai

Mar 14, 2021 (TM)

Bạn yêu dấu,

Dưới đây là bức hình tôi lấy cảm hứng từ bài thơ nhỏ Tâm Kinh và Hoa Huệ của Pháp Hoan, chú tiểu nhỏ ngồi đọc kinh tôi gặp trong đền Swayambhunath ở Kathmandu Nepal. Còn nhớ không buổi chiều muộn hôm nào tôi xin được nghe kinh Bát Nhã khi tôi đang xa nhà, tiếng đọc kinh trầm trầm đủ để dịu đi những sóng gió trong lòng lúc đó tôi đã thầm cám ơn. Đêm nay, lòng bình yên, tôi gởi lại những câu kinh như một lời hát ru cho những ngổn ngang đang xóa dần đi niềm vui sống trong bạn mình.

Bonne nuit et du courage!

Tống Mai
(Viết cho bạn tôi.
Và gởi em tôi Pháp Hoan.
Virginia, Mar 14, 2021)

 

Không nhơ cũng không sạch
Không trước cũng không sau
Không thấp cũng không cao
Không thêm cũng không bớt

Không sanh cũng không diệt
Không có cũng không không
Nở ra giữa mênh mông
Một cành hoa huệ trắng
(Tâm Kinh – Pháp Hoan)

 

TÂM KINH TUỆ GIÁC QUA BỜ
(Bản dịch của Thầy Thích Nhất Hạnh – Nguồn: Làng Mai)

Bồ-tát Avalokiteśvara, trong khi quán chiếu sâu sắc với tuệ giác qua bờ, bỗng khám phá ra rằng tất cả năm uẩn đều trống rỗng, tất cả đều là cái không. Giác ngộ điều ấy xong, bồ-tát vượt qua được mọi khổ đau ách nạn.

“Này Śāriputra, hình hài này chính là cái không và cái không cũng chính là hình hài này. Hình hài này không phải là một cái gì khác với cái không và cái không cũng không phải là một cái gì khác với hình hài này. Điều này cũng đúng với các cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức.

“Này Śāriputra, tất cả mọi hiện tượng đều mang theo tướng không, không hiện tượng nào thực sự có sinh, có diệt, có có, có không, có dơ, có sạch, có thêm và có bớt.

“Chính vì vậy mà trong cái không, năm uẩn là hình hài, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức đều không có mặt như những thực tại riêng biệt. Mười tám lĩnh vực hiện tượng là sáu căn, sáu trần và sáu thức cũng đều không có mặt như những thực tại riêng biệt; mười hai khoen nhân duyên cùng sự chấm dứt của chúng, bốn đế là khổ, tập, diệt và đạo cũng không có mặt như những thực tại riêng biệt; tuệ giác và chứng đắc cũng đều như thế.

“Vị bồ-tát khi thực tập phép quán tuệ giác qua bờ không thấy có gì cần được chứng đắc, nên không thấy còn có gì chướng ngại trong tâm. Và vì tâm không còn chướng ngại nên vị ấy vượt thắng được mọi sợ hãi, đập tan được mọi tri giác sai lầm và đạt được nirvāṇa tuyệt hảo.

“Tất cả các Bụt trong quá khứ, hiện tại và vị lai nhờ nương vào phép thực tập tuệ giác qua bờ mà đạt tới chánh giác toàn vẹn.

“Cho nên, này thầy Śāriputra, ai cũng cần biết rằng tuệ giác qua bờ là một linh chú lớn, là linh chú sáng nhất, là linh chú cao nhất, là linh chú không thể so sánh được. Đó là tuệ giác chân thực có khả năng diệt trừ tất cả mọi khổ nạn. Vì vậy ta nên đọc lên câu linh chú sau đây để tán dương tuệ giác qua bờ:

“Gate, gate, pāragate, pārasamgate, bodhi, svaha!”

Lý do tại sao phải dịch lại Tâm Kinh

Các con của Thầy,

Sở dĩ Thầy phải dịch lại Tâm kinh, vì vị tổ sư biên tập Tâm kinh đã không đủ khéo léo trong khi sử dụng ngôn từ; do đó, đã gây ra nhiều hiểu lầm qua các thời đại.

Thầy muốn kể cho các con nghe hai câu chuyện: câu chuyện của một vị sa-di tới tham vấn một thiền sư và câu chuyện một thầy khất sĩ tới tham vấn Tuệ Trung Thượng Sĩ.

1

Vị thiền sư hỏi chú sa-di:
– Con hiểu Tâm kinh như thế nào, nói cho Thầy nghe đi.

Chú sa-di chắp tay đáp:
– Con học được rằng, tất cả năm uẩn đều là không. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp; không có sáu thức, mười tám giới cũng không có, mười hai nhân duyên cũng không có, mà cả tuệ giác và chứng đắc cũng không có.

– Con có tin vào lời kinh ấy không?

– Dạ con rất tin vào lời kinh.

Thiền sư bảo:
– Con xích lại gần thầy đây.

Khi chú sa-di xích lại gần, vị thiền sư liền dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ của mình nắm lấy cái mũi của chú sa-di và vặn một cái mạnh. Chú sa-di đau quá la lên:

– Thầy ơi, thầy làm con đau quá!

Vị thiền sư nhìn chú và hỏi:
– Vừa rồi chú nói rằng không có mũi. Nếu không có mũi thì cái gì đau vậy?

2.

Tuệ Trung Thượng Sĩ là một vị thiền sư cư sĩ, đã từng làm y chỉ sư cho vua Trần Nhân Tông hồi vua còn nhỏ tuổi. Hôm ấy, có một thầy tỳ-kheo tới hỏi ngài về Tâm kinh:
– Bạch Thượng Sĩ, hình hài chính là cái không, cái không chính là hình hài, câu này có nghĩa gì?

Ban đầu, Thượng Sĩ im lặng. Sau đó, Thượng Sĩ hỏi:
– Thầy có hình hài không?

– Dạ có.

– Vậy thì tại sao lại nói hình hài là không?

Thượng sĩ hỏi tiếp:
– Thầy có thấy trong cái không gian trống rỗng kia, có cái hình hài không?

– Dạ con không thấy có.

– Vậy thì tại sao lại nói cái không tức là hình hài?

Vị khất sĩ đứng lên xá và đi ra. Nhưng thầy bị Thượng Sĩ gọi lại và đọc cho nghe bài kệ sau đây:

“Sắc tức thị không, không tức thị sắc,
Chư Bụt ba đời tạm thời bày đặt.
Không chẳng phải sắc, sắc chẳng phải không,
Thể tính sáng trong không hề còn mất.”

Căn cứ vào câu chuyện này, ta thấy Tuệ Trung Thượng Sĩ đã nói ngược lại với Tâm kinh và đã động tới cái công thức “sắc tức thị không, không tức thị sắc” linh thiêng, bất khả xâm phạm của nền văn học Bát-nhã.

Thầy thấy Thượng Sĩ đã đi quá đà. Thượng sĩ chưa thấy được rằng cái lỗi không nằm ở công thức “sắc tức thị không” mà nằm ở chỗ vụng về nơi câu “Thị cố không trung vô sắc”. Cách dùng chữ của Tâm kinh Bát-nhã ngay từ câu đầu cho đến câu: “không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt”, theo Thầy đã là tuyệt hảo. Thầy chỉ hơi tiếc là vị tổ sư biên tập Tâm kinh đã không thêm vào bốn chữ không có, không không ngay sau bốn chữ không sinh, không diệt mà thôi. Bởi vì bốn chữ ấy có thể giúp người thoát khỏi ý niệm có và không, và người ta sẽ không còn dễ bị kẹt vào những cái như “không mắt, không tai, không mũi, không lưỡi…” Cái mũi của chú sa-di đến bây giờ vẫn còn đỏ, các con thấy không?

Vấn đề bắt đầu từ câu kinh: “Này Śāriputra, vì thế mà trong cái không, không có hình hài, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức” (tiếng Phạn: Tasmāc śāriputra śūnyatayāṃ na rūpaṃ na vedanā na saṃjñā na saṃskārāḥ na vijñānam). Ô hay! Vừa nói ở trên là cái không chính là hình hài, và hình hài chính là cái không, mà bây giờ lại nói ngược lại: Chỉ có cái không, không có hình hài. Câu kinh này có thể đưa tới những hiểu lầm tai hại: Nó bốc tất cả các pháp ra khỏi phạm trù hữu và đặt chúng vào trong phạm trù vô (vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức…). Trong khi đó, thực tính của vạn pháp là không hữu cũng không vô, không sinh cũng không diệt. Kiến chấp hữu là một biên kiến. Kiến chấp vô là một biên kiến khác. Cái mũi của sư chú còn đau tới bây giờ là vì sự vụng về này. Cho đến bài kệ kiến giải tương truyền là của tổ Huệ Năng cũng bị kẹt vào ý niệm vô đó: “bản lai vô nhất vật!”:

“Cây bồ đề vốn chưa bao giờ từng có
Đài gương sáng cũng vậy
Từ xưa nay, chưa thực sự có một cái gì
Vậy thử hỏi bụi bặm có chỗ nào để bám?”

Thật là:

“Một áng mây qua che cửa động
Bao nhiêu chim chóc lạc đường về.”

Tuệ giác Bát nhã là thứ tuệ giác siêu việt giúp chúng ta vượt thoát mọi cặp ý niệm đối lập như sinh diệt, có không, nhiễm tịnh, thêm bớt, chủ thể đối tượng, v.v… và tiếp xúc được với thực tại bất sinh bất diệt, phi hữu phi vô, v.v… : thực tại này chính là thực tính của vạn pháp. Đó là trạng thái của sự mát mẻ, lắng dịu, bình an, vô úy, có thể chứng nghiệm được ngay trong đời sống hiện tại với hình thể năm uẩn của mình. Đó là nirvāna. “Chim chóc ưa trời mây, hươu nai ưa đồng quê, các bậc thức giả ưa rong chơi nơi niết bàn.” Đây là một câu rất hay trong phẩm Nê Hoàn của Kinh Pháp Cú trong tạng kinh chữ Hán.

Tuệ giác Bát nhã là sự thật tuyệt đối, là thắng nghĩa đế, vượt lên trên mọi sự thật ước lệ. Nó là cái thấy cao nhất của Bụt. Những đoạn kinh nào trong Đại Tạng, dù là trong các bộ Kinh Bát Nhã đồ sộ, nếu không phản chiếu được tinh thần trên, thì đều còn nằm trong bình diện sự thật ước lệ, chưa phải là đệ nhất nghĩa đế. Rủi thay, ngay trong Tâm Kinh, ta cũng thấy có một đoạn khá dài như thế.

Cũng vì vậy mà trong bản dịch mới này, Thầy đã đổi luôn cách dùng chữ trong nguyên văn tiếng Phạn và bản dịch chữ Hán của thầy Huyền Trang. Thầy dịch: “Chính vì vậy mà trong cái không, năm uẩn là hình hài, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức đều không có mặt như những thực tại riêng biệt, (They do not exist as separate entities). Các pháp từ duyên khởi mà biểu hiện, không có tự tính riêng biệt, không thể tự riêng mình có mặt; đó là điều kinh Bát-nhã muốn tuyên giải. “Cả tuệ giác và chứng đắc cũng không có mặt như những gì riêng biệt.” Câu kinh này cũng sâu sắc không kém gì câu “sắc tức thị không”. Thầy cũng đã thêm vào bốn chữ không có, không không vào sau bốn chữ không sinh, không diệt. “Không có, không không” là tuệ giác siêu việt của Bụt trong kinh Kātyāyana (Ca Chiên Diên), khi Bụt đưa ra một định nghĩa về chánh kiến. Bốn chữ này sẽ giúp cho các thế hệ sa-di tương lai không còn bị đau lỗ mũi.

Tâm kinh Bát-nhã có chủ ý muốn giúp cho Hữu Bộ (Sarvāstivāda) buông bỏ chủ trương ngã không pháp hữu (không có ngã, mà chỉ có pháp). Chủ trương sâu sắc của Bát-nhã thật ra là để xiển dương tuệ giác ngã không (ātma sūnyatā) và pháp không (dharma sūnyatā) chứ không phải là ngã vô và pháp vô. Bụt đã dạy trong kinh Kātyāyana rằng phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm hữu hoặc vô. Câu kinh: “Chính vì vậy mà trong cái không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức…” rõ ràng là đang bị kẹt vào ý niệm vô, cho nên câu kinh ấy không phải là một câu kinh liễu nghĩa. Ngã không (ātma sūnyatā) chỉ có nghĩa là sự trống rỗng của cái ngã, mà không phải là sự vắng mặt của một cái ngã, cũng như chiếc bong bóng trống rỗng bên trong chứ không phải là không có chiếc bong bóng. Pháp không (dharma sūnyatā) cũng thế, nó chỉ có nghĩa là sự trống rỗng của các pháp mà không phải là sự vắng mặt của các pháp, cũng như bông hoa chỉ được làm bằng những yếu tố không phải hoa chứ không phải là bông hoa đang không có mặt.

Tâm kinh Bát-nhã ra đời muộn khi tín ngưỡng mật giáo đã bắt đầu thịnh hành. Vị tổ sư biên tập Tâm kinh đã muốn tín đồ Mật giáo đọc tụng Tâm kinh, nên trong đoạn cuối đã trình bày Tâm kinh như một linh chú. Đây cũng là một phương tiện quyền xảo. Thầy sử dụng cụm từ “tuệ giác qua bờ”, vì trong câu linh chú ấy có từ pāragate có nghĩa là qua tới bờ bên kia, bờ của trí tuệ. Pārāyana cũng như Pāramitā đều được dịch là Đáo Bỉ Ngạn. Trong Kinh Tập (Sutta Nipāta), có một kinh gọi là Pārāyana được dịch là đáo bỉ ngạn, qua tới bờ bên kia.

Chúc các con tập tụng bản dịch mới cho hay. Mình đã có bản dịch tiếng Anh rồi và thầy Pháp Linh đang phổ nhạc mới. Thế nào trong ấn bản mới của Nhật Tụng Thiền Môn, ta cũng đưa bản dịch mới này vào. Hôm qua dịch xong, có một ánh trăng đi vào trong phòng Thầy. Đó là khoảng ba giờ khuya ngày 21.08.2014.

Viết tại Viện Vô Ưu, Waldbrӧl,
Thầy của các con, thương và tin cậy
(Tháng 8 năm 2014)

 

 

26 thoughts on “Tâm Kinh – Tống Mai

  1. stars shining bright above you
    night breezes seem to whisper “i love you”
    birds singing in the sycamore tree
    dream a little dream of me

    say “nighty night” and kiss me
    just hold me tight and say you’ll miss me
    while i’m alone and blue as can be
    dream a little dream of me…

    đọc nhớ Thiền tông bản hạnh… của Trúc lâm đầu đà

    1. Dearest anh Nhàn, thank you for reminding me of this song. The Ella Fitzgerald & Louis Armstrong is the loveliest version: youtube.com/watch?v=ndVo8Yzi8oU

      “Phục dĩ: bóng thỏ đã về Tây, vầng ô đã rạng chiếu nơi chiếu Phạn, họp muôn dòng Thanh tịnh, trên cõi Không lễ các bậc Thánh hiền, Muốn gởi tin bằng gỗ chiên đàn, phải kính đốt xông loài hương báu, Hương này, trồng từ vườn Giới Luật, tưới bằng nước Thiền định, chặt trong vườn trí tuệ, đẻo bằng đao giải thoát. Hương không dùng rìu búa, sức người mà hình thể từ thiên nhiên tự kết. Đốt nén bảo hương Tri Kiến, kết thành đài mây Quang Minh. Lúc hương xông khắp chốn thơm tho, nơi khói tỏa đầy trời ngào ngạt. Nay nhân buổi sớm, con xin đốt hương cúng dường.” (Vua Trần Thái Tông)

  2. Chị làm em cảm động quá chị ơi! Hôm rồi em cũng mang Tâm Kinh của Thầy dịch ra đọc lại, quả đúng là trùng trùng duyên khởi.

    1. Chị chỉ cúng Phật bằng huệ trắng vào ngày Rằm. Bài thơ “Tâm Kinh” của Pháp Hoan thật sự làm chị xúc động những câu cuối:

      “Không có cũng không không
      Nở ra giữa mênh mông
      Một cành hoa huệ trắng”.

    1. Đúng quá chị đẹp Dã Thảo ơi. Chị Mai đọc những câu thơ này chắc vui lắm vì có bạn đồng hành.

    1. Nói đến cái “vĩ đại” của Thầy Nhất Hạnh, Mai không khỏi luyến tiếc sự vắng mặt của Thầy từ đây.
      Khi quyết định dự retreat ở Làng Mai Plum Village mấy năm trước thì đã quá muộn khi Thầy không còn ở đó nữa. Một sự luyến tiếc rất riêng tư khi cái form không còn nhưng essence vẫn tỏa hương.

  3. Chị Tống Mai ơi,
    Mình thật phục chị quá trời. Sau một ngày thật bận rộn: Sáng dậy từ 5AM để vào DC đi bộ (exercise), chụp hình (nghệ thuật), trưa về đi chợ Farmers’ Market (đời sống thực tế), chiều về trả lời những câu hỏi “dấm dớ“ về nhiếp ảnh của học trò, thế mà tối đếnchị vẫn còn có sức và tinh thần để viết một bài dài về đạo Phật quá sâu sắc như thế này. Phục thật!

    Mình không hiểu biết gì về đạo Phật, đọc không thôi mà không hiểu nổi những danh từ chị dùng, nhưng cũng hiểu RẤT sơ qua về philosophy của bài giảng của thầy Nhất Hạnh. Tính là mỗi sáng thức dậy, khi quanh mình cỏn yên lặng, tâm hồn còn thanh tịnh, sẽ đọc một KHÚC thôi, hy vọng sẽ catch được phần nào của đạo Phật chăng?
    Cám ơn chị nhiều.

  4. Mai ơi!
    Chủ Nhật vẫn luôn là ngày favorite của chị vì được vào chùa “tĩnh tâm” nhưng hiện tại con ma Covid nó đang trêu ghẹo nên chị đã không được lên chùa từ November. Thiện tai!

    Sáng nay thức giấc vẫn còn nằm trong chăn vì lạnh quá. Việc đầu tiên là check email. Đọc bài blog của Mai thích nhất trong đoạn “Bát Nhã Tâm Kinh” là câu “Không có cũng không không“. Chị đã tự trao dồi trong đời sống của mình bằng câu này “Không có cũng không sao” từ khi hiểu biết về đạo Phật 😍

    Thương thương nhiều CGTM.

  5. Một xúc cảm tâm hồn khi Mai đã khơi gợi lại những tháng ngày đi tìm chữ Huệ, và Pháp Hoan cũng rất tinh tế khi làm Tâm Kinh và Hoa Huệ.
    Trong Đạo Phật, Huệ chính là Bát Nhã, là Prajna. Huệ không đơn giản chỉ là tuệ trí (wisdom hay intuition) như người ta thường dùng. Khó để diễn tả bằng ngôn từ. Huệ giúp cho ta vượt khỏi thế gian và những cái hữu hạn của nó để đạt được tự do tuyệt đối ! Huệ là cảnh giới của sự Giác Ngộ.
    Bát Nhã Tâm Kinh bởi vì trong Huệ luôn có Tâm – Vô tâm không phải Huệ. 慧 / 惠 cũng đều Huệ cả.
    Bình An đến với tất cả. Cám ơn Mai

  6. J’ai déjà vu un ami pleurer, j’ai aussi pleurer devant un ami.
    Un ami on ne l’oublie pas, j’avais trouvé un ami …
    C’est triste de perdre un ami….

  7. Voir un ami pleurer:

    Bien sûr il y a les guerres d’Irlande
    Et les peuplades sans musique
    Bien sûr tout ce manque de tendres
    Il n’y a plus d’Amérique
    Bien sûr l’argent n’a pas d’odeur
    Mais pas d’odeur me monte au nez
    Bien sûr on marche sur les fleurs
    Mais voir un ami pleurer
    Bien sûr il y a nos défaites
    Et puis la mort qui est tout au bout
    Nos corps inclinent déjà la tête
    Étonnés d’être encore debout
    Bien sûr les femmes infidèles
    Et les oiseaux assassinés
    Bien sûr nos cœurs perdent leurs ailes
    Mais mais voir un ami pleurer
    Bien sûr ces villes épuisées
    Par ces enfants de cinquante ans
    Notre impuissance à les aider
    Et nos amours qui ont mal aux dents
    Bien sûr le temps qui va trop vite
    S’aimer trop remplit de noyer
    La vérité qui nous évite
    Mais voir un ami pleurer
    Bien sûr nos miroirs sont intègres
    Ni le courage d’être juifs
    Ni l’élégance d’être nègres
    On se croit mèche on n’est que suif
    Et tous ces hommes qui sont nos frères
    Tellement qu’on n’est plus étonnés
    Que par amour ils nous lacèrent
    Mais voir un ami pleurer

    youtube.com/watch?v=dK2TCj0Q4Uc

  8. Bạn còn khóc được tức là đã trôi đi phần nào phiền muộn. Vui nào rồi cũng cạn. Buồn nào rồi cũng vơi chừng nào người còn. Không thì, biết đâu, mọi sự sẽ dừng lại.

    1. “When your day is night alone (hold on, hold on)
      If you feel like letting go (hold on)
      If you think you’ve had too much
      Of this life, well hang on
      ‘Cause everybody hurts
      Take comfort in your friends
      Everybody hurts”
      (R.E.M) youtube.com/watch?v=S2N_uvnvGbI

  9. Bức hình thật đẹp một cách trang nghiêm và thanh tịnh .
    Ngắm tác phẩm của Mai và đọc bài thơ cảm thấy tâm an nhiên , thơ thới , không phải ưu tư một điều gì .
    Cám ơn Mai .
    Mai xót xa vì thấy bạn khóc , nhưng Mai ơi khi bạn còn khóc được là nỗi buồn đau cũng được giải toả phần nào , khi bạn buồn mà không khóc được ắt là nỗi đau sẽ còn làm ray rứt tâm can nhiều hơn .
    Cứ nghĩ như thế cho bạn Mai sẽ cảm thấy bình yên .

  10. Tâm của anh trú nơi đâu ?
    Quá khứ, hiện tại hay tương lai?
    Ngọn nến phụt tắt.
    Và Kim Cương Bát Nhã chỉ là tro tàn mà thôi.

    Quel esprit ponctuez-vous?
    Le passé, le présent ou le futur?
    La bougie s’est éteinte
    Et le Diamant n’est plus que cendres.

    Câu chuyện về sự đạt ngộ của Thiền sư Tokusan.

    Tokusan khi còn trẻ chưa học Thiền, ông rất ham mê học hỏi Kinh Tạng về Kim Cương Thừa và rất tin tưởng rằng Thiền tạo nên Phật Giáo nên ông quyết tâm đi tim học đạo.

    Trên đường xuôi nam tầm thầy, buổi tối nọ, khi vào một trà quán để dùng bữa và nghĩ ngơi, người chủ quán hỏi ông mang gì trên lưng vậy:

    -Đó là chú giải của Seiryo về Kinh Kim Cương Bát Nhã. Tokusan tự hào đáp trả.

    -Oh, vậy thì cho tôi một câu hỏi, nếu ông trả lời được tôi sẽ phục vụ ông bất kỳ điều ông yêu cầu, nếu không được, xin ông vui lòng đi nơi khác. Theo Kim Cương Kinh, Tâm không ở quá khứ, không ở hiện tại, không ở tương lai, vậy trong trường hợp này tâm của ông an trú nơi đâu?

    Tokusan không trả lời được đành phải ra đi và nhịn đói.

    Đến Ryutan, nơi Tokusan học thiền rất chăm chỉ dưới sự chỉ dạy của Thiền sư Sôshin.
    Một hôm, khi ông đang giúp công việc cho thầy thì vị thầy bảo với ông rằng:

    -Trễ lắm rồi, sao con không trở về phòng con?
    Tokusan vội chạy ra ngoài và nhận thấy trời đã tối đen. Trở vào ông nói với thầy:

    -Tối rồi.
    Lúc đó người thầy đưa cho ông một cây nến đã thắp sáng. Nhưng đúng vào lúc Tokusan vừa cầm lấy thì người thầy đã thổi tắt nến.
    Người ta cho rằng chính lúc nến tắt, Tokusan đã đạt ngộ.
    Kim Cương Bát Nhã chỉ là tro tàn mà thôi.

Leave a Reply